Mở đầu
Trí thức là tầng lớp “có chữ”, có hiểu biết sâu, rộng về một hay vài lĩnh
vực nào đó. Học giả Cao Huy Thuần gọi thành phần trí thức là “lương tâm của
thời đại”. Bởi vai trò của trí thức là dẫn dắt, khai mở cho các tầng lớp khác
bằng nhận thức, tư tưởng, phát minh, phát kiến của mình nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ, lành mạnh…
“Đa nhân cách” trước hết là vấn đề thuộc về tâm lý phổ biến của con người
nhất là trong xã hội hiện đại khi phải chống chọi và ứng phó nhằm thích nghi
với những tình huống khác nhau của cuộc sống. Chính do phải luôn tìm cách đối
phó và thích nghi đã làm cho nhân cách của con người bị “rối loạn” từ đó chuyển
thành bệnh lý. Người bị rối loạn nặng là những bệnh nhân tâm thần buộc phải
điều trị và cách ly.
Quan sát những gì đang diễn ra trong xã hội Việt Nam hôm nay, đặc biệt là
khi mạng xã hội bùng nổ có thể thấy những thang bậc giá trị văn hóa đang ngày
một bị đảo lộn và băng hoại. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng dường như có một
nguyên nội tại, cốt tử nhất từ phía tầng lớp trí thức trong xã hội lại hiếm khi
được để cập và mổ xẻ nghiêm túc. Bởi như đã nói ở trên, với vai trò dẫn dắt và
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội nên khi các thang bậc giá trị của xã hội bị đảo lộn
thì chắc chắn trí thức không thể vô can, nếu không muốn nói là tội đồ cần phải
lên án trước tiên.
Ở phương diện nghề nghiệp, thành phần trí thức trong xã hội thường tập
trung ở các lĩnh vực liên quan đến các “nhà” như: nhà giáo, nhà văn, nhà báo,
nhà văn hóa, nhà chính trị… Sẽ có người tự ái và không hài lòng nhưng phải nói
rằng thành phần các “nhà” này ở xã hội Việt Nam hôm nay đang rơi vào vòng xoáy
của sự sa đọa với những biểu hiện và đặc điểm như: xu thời, trí trá, hèn kém,
nước đôi, ba phải… Nói khác đi, có thể gọi đây là cách/lối sống muôn mặt, giả
tạo, lá mặt lá trái, gió bề nào che bề đó của một bộ phận rất đông trong tầng
lớp trí thức nước nhà hôm nay.
Dấu hiệu, thời điểm, giai đoạn khởi phát
Dẫu vậy, cũng phải khẳng định rằng cái mốc từ sau 1945 đến nay những biểu
hiện trên mới ngày một khởi phát, hiển hiện ngày một rõ ràng và trầm trọng hơn.
Trong “Bút pháp của ham muốn”, từ góc nhìn
phân tâm học, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có những phát hiện độc đáo khi
nghiên cứu trường hợp thơ Chế Lan Viên. Theo ông, thơ Chế Lan Viên là những
biểu hiện của một tâm hồn nghệ sĩ – một trí thức đa nhân cách trước những biến
thiên của thời cuộc. Nếu như trước 1945, Chế Lan Viên tự nhân mình là cái “tháp
bayon 4 mặt” buộc phải “giấu đi 3” trong tư cách người nghệ sĩ thực thụ thì sau
1945, sự “rối loạn” nhân cách (đa nhân cách) của Chế Lan Viên gần như là một
phản ứng mang tính bản năng nhằm thích nghi với tư tưởng, nhận thức, chủ trương
và đường lối cách mạng do ĐCS lãnh đạo trong bối cảnh chiến tranh loạn lạc. Và
không chỉ riêng Chế Lan Viên đa phần những tài năng trước 1945 đều như vậy.
Nghĩa là tất cả đều phải “nói lại” cho “hợp thời” để trước hết được tồn tại và
thụ hưởng bổng lộc.
Đó cũng là lý do sau 1945 các nghệ sĩ trên sản xuất thơ văn nghệ thuật rất
nhiều nhưng oái oăm thay độc giả hôm nay nhìn chung chỉ nhớ đến những gì họ
viết ra trong khoảng từ 1930 đến 1945. Riêng Chế Lan Viên, trong cùng thời điểm
nhưng ban ngày thì làm thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi cách mạng nhưng đêm đến thì
làm thơ cho chính mình trong nỗi ăn năn, sám hối, kiểu: “Ai? Tôi”! – Mậu Thân 2000 người xuống đường…”.
Đây có thể xem là những chỉ dấu đầu tiên cho thấy sự trượt dài của tầng lớp
trí thức nước nhà thời hiện đại. Đỉnh điểm cho sự trượt dài này là cả một thế
hệ tuy cùng chiến tuyến nhưng đã trở mặt chĩa ngòi bút quyết chiến nhau trong
vụ án mang tên “Nhân văn giai phẩm”. Trước người “anh cả” Tố Hữu, những “cái
tôi” lừng lẫy, cao chót vót tựa đỉnh Hy Mã Lạp Sơn như Xuân Diệu, Hoài Thanh,
Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Huy Cận… đã phải cúi đầu thần phục nhằm chứng minh
sự trung thành của bản thân để được trọng dụng, vinh danh.
Từ sau năm 1975, tuy đất nước được thống nhất, giang sơn thu về một mối
nhưng nhìn chung cả dân tộc vẫn vẫy vùng trong vũng lầy của sự nghèo đói cả về
vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt giai đoạn từ 1975 đến 1986 gần như là kiệt
quệ.
Ở giác độ văn hóa, nhìn sâu vào bên trong có thể nói, một trong những
nguyên nhân lớn nhất đưa đến sự kiệt quệ của đất nước giai đoạn này là do sự
khủng hoảng của tầng lớp trí thức thuộc 2 phe khi nước nhà vừa thống nhất. Hay
nói khác đi, việc “hòa hợp”, “hòa giải” dân tộc đã không được “bên thắng cuộc”
thực thi như đã hứa hẹn (vấn đề này thậm chí vẫn kéo dài đến tận hôm nay).
Những người trí thức thuộc chế độ cũ miền Nam phần vì “sốc văn hóa” (khi
tiếp xúc với các “trí thức” miền Bắc XHCN vào tiếp quản và lãnh đạo toàn diện)
phần vì tự trọng nên đã tự kết liễu hoặc buộc phải bỏ xứ ra đi. Tô Thùy Yên sau
hơn 10 năm học tập “cải tạo” đã ngậm ngùi nuốt nước mắt vào trong, kiểm nghiệm
lại đời mình sao quá xót xa trong cơn “thương hải tang điền”: “Ta về như bóng ma hờn tủi/ Lục
lại thời gian kiếm chính mình/ Ta nhặt mà thương từng phế liệu/ Như từng hài
cốt sắp vô danh”.
Từ 1986 đến 2000, đây là giai đoạn mở cửa và từng bước hội nhập (sau khi đã
bừng tỉnh trước những đòi hỏi bức thiết về sự tồn vong của dân tộc do những sai
lầm trong điều hành đất nước nhất là về kinh tế và ngoại giao…), đất nước về cơ
bản có khởi sắc hơn về đời sống vật chất nhưng về tinh thần thì những dấu hiệu
của sự suy đồi ngày một rõ nét hơn.
“Bần cùng sinh đạo tặc, phú quý sinh lễ nghĩa”. Các du học sinh (nghe nói
rất ít người học hành nghiêm túc mà chủ yếu là buôn lậu, chạy mánh) từ khối
CNXH anh em Đông Âu nhất là Liên Xô sau khi trở về đã rất tinh mắt nhận ra thời
cơ làm giàu trong bối cảnh nhập nhèm, tranh tối tranh sáng của đất nước vừa
bước qua thời cơm độn khoai sắn. Kẻ lanh mắt chiếm lĩnh trận địa văn hóa, giáo
dục, nghệ thuật bằng vỏ bọc Tiến sĩ “sau một đêm” ngủ dậy; kẻ nhanh nhảu nhìn
ra những kẽ hở của hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề hàng hóa nhập cảnh ở
các hải cảng, cửa khẩu và nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đai…
Đất nước từ đây được vận hành và hoàn toàn bị chi phối tuyệt đối bởi tầng
lớp trí thức – con người mới XHCN (chủ yếu ở phía Bắc). Tuy vậy, cũng phải nói
rằng trong hai thành phần trên thì thành phần trí thức đã nhanh chóng chiếm
lĩnh trận địa văn hóa, giáo dục, nghệ thuật là kinh khủng và kinh tởm nhất. Bởi
văn hóa, giáo dục, nghệ thuật là nền tảng, là tâm hồn của xã hội và dân tộc,
đất nước. Chính thành phần này chứ không phải ai khác đã thao túng và làm cho
đạo đức văn hóa nước nhà ngày một trở nên suy đồi vàng thau lẫn lộn dẫn đến hệ
lụy như hôm nay. Bằng chứng cụ thể và rõ ràng nhất là những lần họ “đổi mới căn
bản và toàn diện nền giáo dục” nước nhà và việc họ sản xuất, nhân bản ra hàng
lô hàng lốc các Thạc sĩ, Tiến sĩ…ở các “lò ấp” trên khắp cả nước nhưng vẫn cao
giọng rao giảng đạo đức.
Như một hệ lụy tất yếu, từ 2000 đến nay, dưới sự bùng nổ của công nghệ
truyền thông và mạng xã hội, bộ mặt văn hóa – tâm hồn của dân tộc đã phơi bày
một cách trần trụi. Nếu như trước đây, có người sau một đêm thành Tiến sĩ thì
bây giờ sau một giờ một kẻ ất ơ bán hàng đa cấp cũng có thể thành nhà văn, nhà
báo, nhà từ thiện, nhà nghệ sĩ…; một anh nhà văn, nhà báo quèn cũng thành nhà văn
hóa, nhà diễn thuyết, nhà dân chủ… có khả năng dẫn dắt chi phối cả xã hội với
những danh xưng đúng mốt: facebooker, youtuber…
Thật lạ lùng và xót xa, xã hội gì mà bạn bè, anh em, đồng nghiệp, đồng chỉ
có khi chỉ vì một lời bình, một cái bấm like…cũng sẵn sàng trở mặt, lao vào
nhau, xem nhau như kẻ thù không đội trời chung!
Nguyên nhân và một vài biểu hiện cụ thể
Có ba nguyên nhân chính gây nên sự rối loạn nhân cách của tầng lớp trí thức
Việt Nam hôm nay:
Một là, xuất phát điểm và nền tảng văn hóa xã hội của dân tộc thấp. Là một
nước thuần nông và nghèo đói người Việt gần như quanh năm chỉ lo cày cấy và
chống giặc ngoại xâm. Cả dân tộc, vì thế, không có truyền thống văn hóa, tư
tưởng gì có thể mang đi “xuất khẩu” trái lại còn bị ảnh hưởng, lệ thuộc nặng nề
từ ngoại bang phương Bắc.
Hai là, sự “đứt gãy văn hóa” do những biến cố lịch sử dân tộc mấy nghìn năm
chiến tranh loạn lạc liên miên. “Thắng làm vua làm giặc” – như một thói quen
tất yếu trong truyền thống phương Đông, “bên thắng cuộc” bao giờ cũng vậy việc
đầu tiên sau khi đã nắm trọn quyền hành là truy tầm, thanh trừng những mầm mống
còn sót lại của kẻ thù; sau nữa là “đốt sách, chôn nho” vừa để diệt trừ hậu họa
vừa để thỏa mãn thói kiêu ngạo của kẻ thắng trận. Hậu quả là, những giá trị của
triều đại cũ mất đi trong khi các giá trị mới chưa kịp định hình, sự đứt gãy cứ
liên tục như thế làm cho con người và xã hội lạc lõng, ngơ ngác không biết bấu
víu vào đâu.
Ba là, trong một xã hội chuyên chế, độc tôn có thể thấy từ sau khi đất nước
thống nhất đến nay, Việt Nam không sản sinh ra được những cá nhân có tầm ảnh
hưởng sâu rộng, nói như Trần Hữu Dũng đây là “thời vắng những nhà văn hóa lớn”
có thể dẫn dắt, khai mở cho đám đông dân chúng.
Một dân tộc không có tư tưởng, suốt chiều dài lịch sử hết lo chuyện miếng
ăn lại quay cuồng trong các cuộc chiến trước hết là một bất lợi nếu không nói
là một định mệnh đầy bi kịch. Để yên ổn và thoát khỏi bi kịch điều tất yếu là
phải tìm cách “ẩn mình”, “biến hình”, ngụy tạo nhằm đối phó và thích nghi. Thế
nên, sự đa nhân cách của người Việt hôm nay phải chăng là một vấn đề thuộc về
căn tính dân tộc có tính lịch sử?
Dẫu vậy, lịch sử đã nhiều lần sang trang, thời đại hôm nay đã khác, lẽ ra,
người Việt đã có thể cải thiện hình ảnh và tự giải thoát cho chính mình nếu như
biết nắm bắt cơ hội trong thế giới mở. Nhưng tiếc thay, trong một xã hội chuyên
chế, sự độc đoán, độc tài về tư tưởng, một lần nữa đã đóng sập mọi cánh cửa để
cho cả dân tộc có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu ở phương diện tư
tưởng, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật… – những yếu tố quan trọng làm nên phẩm
cách dân tộc, phẩm cách quốc gia…
Người Việt hôm nay không những không thoát ra được cái vòng luẩn quẩn mấy
ngàn năm mà ngày một bị rối loạn thêm hơn. Vì để được tồn tại tất cả gần như
buộc phải tiếp tục “hóa trang”, “hóa thân”, “nhập vai” để che giấu con người
thật, nhân cách thật của mình một cách thuần thục và tinh vi hơn.
Hẵn chúng ta đã nghe những câu nói có tính khái quát về những vấn đề liên
quan đến đời sống, xã hội và con người hôm nay như: “thằng đó đảng viên mà
tốt”, “công an nhưng chơi được”, “quan chức, lãnh đạo mà tử tế”, “nhà văn mà
không hèn”, “nhà báo mà không làm tiền”, “khen cho nó chết”, “cái gì không mua
được bằng tiên sẽ mua bằng số tiền lớn hơn”, “nghèo thì nó ghét, đói rét nó
khinh, thông minh nó tìm cách tiêu diệt”… Ngôn ngữ là tư duy, những câu nói
ngắn nhưng phản ánh rất rõ tâm thế của một xã hội mà ở đó những người trí thức
với vai trò dẫn dắt đã thật sự đánh mất chính mình; cho thấy sự hoang mang, bấn
loạn và mất niềm tin của con người trong xã hội.
Ở phương diện khác, văn chương nghệ thuật vốn không có biên giới; có người
nói văn chương nghệ thuật số phận con người, là tâm hồn dân tộc… Nhưng có lẽ
chỉ ở Việt Nam là có “văn nghệ công an”, “văn nghệ quân đội”… cùng những cuộc
thi với chủ đề “người lính”, người công an nhân dân… Chẳng lẽ tâm hồn và số
phận dân tộc Việt Nam chỉ gói gọn trong các chủ đề ấy? Chắc chắn là không phải
vậy. Nhưng từ hiện tượng này và nhìn rộng ra nhiều lĩnh vực khác nữa, cho thấy
người trí thức trong xã hội Việt Nam hôm nay đang ở vào tình thế, tình huống
rất ngặt nghèo: nếu muốn tiến thân thì phải chấp nhận biến hình, thỏa hiệp thậm
chí bán rẻ nhân cách.
Là nhà văn, nhà báo nhưng đồng thời còn là một đảng viên, một sĩ quan, một
quân nhân với lời thề tuyệt đối trung thành với Đảng thế thì anh sẽ phản ánh,
phản biện như thế nào trước những bất công xã hội mà bản thân anh trong tư cách
một con người đã nhận thấy rất rõ cái nguyên nhân cốt tử của nó? Nếu không có
dũng khí và lòng tự trọng chỉ còn một cách duy nhất là phải tiếp tục làm “tháp
Bayon 4 mặt”; tiếp tục “diễn” thôi. Nhưng “diễn” như thế nào? Nếu diễn nhạt anh
sẽ không có đất sống, không có lợi cũng chẳng có danh; ngược lại chỉ cần diễn
tốt một hoặc tất cả các vai mặc nhiên và chắc chắn anh là kẻ trí trá, lọc lừa,
gian dối (trước hết là với chính bản thân mình).
Là một trí thức – “lương tâm thời đại” quan trọng và trước hết anh phải là
người chính trực, cương trực, tự trọng cả trong suy nghĩ và lời nói, hành động.
Người trí thức không thể bù khú, tụm năm tụm ba với bạn bè ở quán cóc vỉa hè
thì hùng hổ, lớn tiếng mắng chửi, coi khinh quan chức lãnh đạo trong bộ máy
công quyền nhưng khi gặp họ trong cuộc họp thì khép nép, bợ đỡ, luồn cúi xin
chụp ảnh để làm kỷ niệm (thực ra là để tiếp tục khoe, lòe người khác “tao mới
ngồi với ông Chủ tịch…” ); không phải lên mạng xã hội đóng vai nhà dân chủ với
tư tưởng cấp tiến giả vờ công kích những chủ trương chính sách sai lầm của nhà
cầm quyền nhằm lấy lòng đám đông chúng nhưng mặt khác lại âm thầm, lén lút “đi
đêm” với thành phần biến chất để thao túng, lũng đoạn tất cả.
Là Giáo sư, Tiến sĩ, nhà giáo anh không được vừa lớn giọng bảo ngành giáo
dục phải thay đổi quy trình, nâng chuẩn đầu ra trong đào tạo nhưng lại nhận
phong bì để thông qua các công trình, luận án mà bản thân anh biết là kém chất
lượng, không đạt yêu cầu.
Là nhà báo anh không thể vừa là cây bút chủ lực trong việc tuyên truyền
trên báo chính thống về những câu chuyện tử tế nhưng đồng thời lại một
facebooker, một Klos vừa tạo ra sự khủng hoảng để sau đó nhận giải cứu truyền
thông bất chấp đạo đức nghề nghiệp; không thể trên báo chính thống thì anh
ngoan ngoãn lấy lòng lãnh đạo nhưng lên mạng xã hội thì anh như con ngựa chứng
dẫn dắt đám đông bằng những chiêu trò, câu chữ õng ẹo, rẻ tiền; hoặc khi đương
chức với vai trò lãnh đạo anh đã gạt phăng những bài viết chân thực, ruột gan
của đồng nghiệp và cấp dưới nhưng khi về hưu thì lại huênh hoang tự nhận mình
đã từng phải khổ sở bảo vệ, thanh minh cho họ với cấp trên…
Là nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ sĩ anh “không thể quay lưng với đồng bào để
nhận huân chương của nhà nước; không được phản bội nhân dân để hưởng bổng lộc
triều đình” (Bùi
Chí Vinh) rồi cao ngạo, rao giảng về sứ mệnh nọ kia của người nghệ sĩ hay văn
chương nghệ thuật…
Đến đây, có thể nói sự lạc hậu, trì trệ và suy đồi về đạo đức văn hóa ở xã
hội Việt Nam hôm nay âu cũng là một lẽ tất yếu. Bởi chân thành mà nói, hiện tại
Việt Nam không có một tầng lớp trí thức đặc biệt là trí thức tinh hoa đúng
nghĩa.
Thay lời kết
Trong các báo cáo mang tính tổng kết về văn hóa xã hội Việt Nam thời gian
qua, không ít người (nhà nghiên cứu, nhà cầm quyền…) cho rằng mạng xã hội
(trước đó là “mặt trái của kinh tế thị trường”) là nguyên nhân chính gây ra sự
loạn chuẩn hay xuống cấp về đạo đức văn hóa của đất nước. Kết luận này không
phải không có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng nếu chỉ như thế thì không
những rất phiến diện mà còn dễ dãi. Đặc biệt nó mang nặng tính đổ lỗi, đổ thừa
cho những yếu tố “bên ngoài” hơn là dũng cảm nhìn nhận, suy xét đến các “yếu tố
bên trong” nhất là vấn đề thuộc về tinh thần và thái độ của tầng lớp trí thức
trong xã hội – một trong những nguyên sâu xa và cốt tử nhất.
Mạng xã hội, suy cho cùng chỉ là phương tiện góp phần thúc đẩy và phơi bày
tất cả những ngỏ ngách trong tâm hồn của dân tộc này một cách mau lẹ, nhanh
chóng và trần trụi hơn mà thôi. Cái tâm hồn của một dân tộc có bề dày lịch sử
mấy ngàn năm nhưng vẫn chưa chịu trưởng thành với những biểu hiện như: cảm
tính, xốc nổi, chia rẽ, sân hận, chỉ thấy những mối lợi trước mắt mà không suy
nghĩ đến hệ lụy lâu dài…Vì thế mà thường xuyên bị ngoại bang lợi dụng, bắt nạt,
cai trị…
Người xưa nói, “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” huống hồ là một kẻ
sĩ, một trí thức có điều kiện và cơ hội hơn các thành phần khác. Thế nên, thiển
nghĩ, muốn thay đổi hiện trạng này, điều quan trọng nhất mà tầng lớp trí thức
nước nhà hôm nay cần phải ưu tiên thực hiện đó là phải biết xấu hổ với chính
bản thân mình; phải biết xấu hổ trước sự rệu rã, băng hoại đạo đức xã hội mà
chính mình đã và đang vô tình hay cố ý góp phần bằng vô số các vai diễn khác
nhau trên sân khấu cuộc đời để kiếm lợi, kiếm danh. Bằng ngược lại, nếu không
thức tỉnh, không biết xấu hổ cũng đồng nghĩa với việc chà đạp lên cái “lương
tâm thời đại”. Nhưng nếu như thế thì chắc chắn đó thái độ và hành vi của những
kẻ vô liêm sỉ.
CT, Rằm tháng giêng năm Tân Sửu
(25/02/2021)
Quách Hạo Nhiên