Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

Xã Hội Việt Nam hôm nay, hay là Hệ Lụy từ sự Đa Nhân Cách Tầng Lớp Trí Thức

 Mở đầu

Trí thức là tầng lớp “có chữ”, có hiểu biết sâu, rộng về một hay vài lĩnh vực nào đó. Học giả Cao Huy Thuần gọi thành phần trí thức là “lương tâm của thời đại”. Bởi vai trò của trí thức là dẫn dắt, khai mở cho các tầng lớp khác bằng nhận thức, tư tưởng, phát minh, phát kiến của mình nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng văn minh, tiến bộ, lành mạnh…

“Đa nhân cách” trước hết là vấn đề thuộc về tâm lý phổ biến của con người nhất là trong xã hội hiện đại khi phải chống chọi và ứng phó nhằm thích nghi với những tình huống khác nhau của cuộc sống. Chính do phải luôn tìm cách đối phó và thích nghi đã làm cho nhân cách của con người bị “rối loạn” từ đó chuyển thành bệnh lý. Người bị rối loạn nặng là những bệnh nhân tâm thần buộc phải điều trị và cách ly.

Quan sát những gì đang diễn ra trong xã hội Việt Nam hôm nay, đặc biệt là khi mạng xã hội bùng nổ có thể thấy những thang bậc giá trị văn hóa đang ngày một bị đảo lộn và băng hoại. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng dường như có một nguyên nội tại, cốt tử nhất từ phía tầng lớp trí thức trong xã hội lại hiếm khi được để cập và mổ xẻ nghiêm túc. Bởi như đã nói ở trên, với vai trò dẫn dắt và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội nên khi các thang bậc giá trị của xã hội bị đảo lộn thì chắc chắn trí thức không thể vô can, nếu không muốn nói là tội đồ cần phải lên án trước tiên.

Ở phương diện nghề nghiệp, thành phần trí thức trong xã hội thường tập trung ở các lĩnh vực liên quan đến các “nhà” như: nhà giáo, nhà văn, nhà báo, nhà văn hóa, nhà chính trị… Sẽ có người tự ái và không hài lòng nhưng phải nói rằng thành phần các “nhà” này ở xã hội Việt Nam hôm nay đang rơi vào vòng xoáy của sự sa đọa với những biểu hiện và đặc điểm như: xu thời, trí trá, hèn kém, nước đôi, ba phải… Nói khác đi, có thể gọi đây là cách/lối sống muôn mặt, giả tạo, lá mặt lá trái, gió bề nào che bề đó của một bộ phận rất đông trong tầng lớp trí thức nước nhà hôm nay.

Dấu hiệu, thời điểm, giai đoạn khởi phát

Dẫu vậy, cũng phải khẳng định rằng cái mốc từ sau 1945 đến nay những biểu hiện trên mới ngày một khởi phát, hiển hiện ngày một rõ ràng và trầm trọng hơn.

Trong “Bút pháp của ham muốn”, từ góc nhìn phân tâm học, nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có những phát hiện độc đáo khi nghiên cứu trường hợp thơ Chế Lan Viên. Theo ông, thơ Chế Lan Viên là những biểu hiện của một tâm hồn nghệ sĩ – một trí thức đa nhân cách trước những biến thiên của thời cuộc. Nếu như trước 1945, Chế Lan Viên tự nhân mình là cái “tháp bayon 4 mặt” buộc phải “giấu đi 3” trong tư cách người nghệ sĩ thực thụ thì sau 1945, sự “rối loạn” nhân cách (đa nhân cách) của Chế Lan Viên gần như là một phản ứng mang tính bản năng nhằm thích nghi với tư tưởng, nhận thức, chủ trương và đường lối cách mạng do ĐCS lãnh đạo trong bối cảnh chiến tranh loạn lạc. Và không chỉ riêng Chế Lan Viên đa phần những tài năng trước 1945 đều như vậy. Nghĩa là tất cả đều phải “nói lại” cho “hợp thời” để trước hết được tồn tại và thụ hưởng bổng lộc.

Đó cũng là lý do sau 1945 các nghệ sĩ trên sản xuất thơ văn nghệ thuật rất nhiều nhưng oái oăm thay độc giả hôm nay nhìn chung chỉ nhớ đến những gì họ viết ra trong khoảng từ 1930 đến 1945. Riêng Chế Lan Viên, trong cùng thời điểm nhưng ban ngày thì làm thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi cách mạng nhưng đêm đến thì làm thơ cho chính mình trong nỗi ăn năn, sám hối, kiểu: “Ai? Tôi”! – Mậu Thân 2000 người xuống đường…”.

Đây có thể xem là những chỉ dấu đầu tiên cho thấy sự trượt dài của tầng lớp trí thức nước nhà thời hiện đại. Đỉnh điểm cho sự trượt dài này là cả một thế hệ tuy cùng chiến tuyến nhưng đã trở mặt chĩa ngòi bút quyết chiến nhau trong vụ án mang tên “Nhân văn giai phẩm”. Trước người “anh cả” Tố Hữu, những “cái tôi” lừng lẫy, cao chót vót tựa đỉnh Hy Mã Lạp Sơn như Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Huy Cận… đã phải cúi đầu thần phục nhằm chứng minh sự trung thành của bản thân để được trọng dụng, vinh danh.

Từ sau năm 1975, tuy đất nước được thống nhất, giang sơn thu về một mối nhưng nhìn chung cả dân tộc vẫn vẫy vùng trong vũng lầy của sự nghèo đói cả về vật chất lẫn tinh thần, đặc biệt giai đoạn từ 1975 đến 1986 gần như là kiệt quệ.

Ở giác độ văn hóa, nhìn sâu vào bên trong có thể nói, một trong những nguyên nhân lớn nhất đưa đến sự kiệt quệ của đất nước giai đoạn này là do sự khủng hoảng của tầng lớp trí thức thuộc 2 phe khi nước nhà vừa thống nhất. Hay nói khác đi, việc “hòa hợp”, “hòa giải” dân tộc đã không được “bên thắng cuộc” thực thi như đã hứa hẹn (vấn đề này thậm chí vẫn kéo dài đến tận hôm nay).

Những người trí thức thuộc chế độ cũ miền Nam phần vì “sốc văn hóa” (khi tiếp xúc với các “trí thức” miền Bắc XHCN vào tiếp quản và lãnh đạo toàn diện) phần vì tự trọng nên đã tự kết liễu hoặc buộc phải bỏ xứ ra đi. Tô Thùy Yên sau hơn 10 năm học tập “cải tạo” đã ngậm ngùi nuốt nước mắt vào trong, kiểm nghiệm lại đời mình sao quá xót xa trong cơn “thương hải tang điền”: “Ta về như bóng ma hờn tủi/ Lục lại thời gian kiếm chính mình/ Ta nhặt mà thương từng phế liệu/ Như từng hài cốt sắp vô danh”.

Từ 1986 đến 2000, đây là giai đoạn mở cửa và từng bước hội nhập (sau khi đã bừng tỉnh trước những đòi hỏi bức thiết về sự tồn vong của dân tộc do những sai lầm trong điều hành đất nước nhất là về kinh tế và ngoại giao…), đất nước về cơ bản có khởi sắc hơn về đời sống vật chất nhưng về tinh thần thì những dấu hiệu của sự suy đồi ngày một rõ nét hơn.

“Bần cùng sinh đạo tặc, phú quý sinh lễ nghĩa”. Các du học sinh (nghe nói rất ít người học hành nghiêm túc mà chủ yếu là buôn lậu, chạy mánh) từ khối CNXH anh em Đông Âu nhất là Liên Xô sau khi trở về đã rất tinh mắt nhận ra thời cơ làm giàu trong bối cảnh nhập nhèm, tranh tối tranh sáng của đất nước vừa bước qua thời cơm độn khoai sắn. Kẻ lanh mắt chiếm lĩnh trận địa văn hóa, giáo dục, nghệ thuật bằng vỏ bọc Tiến sĩ “sau một đêm” ngủ dậy; kẻ nhanh nhảu nhìn ra những kẽ hở của hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề hàng hóa nhập cảnh ở các hải cảng, cửa khẩu và nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đai…

Đất nước từ đây được vận hành và hoàn toàn bị chi phối tuyệt đối bởi tầng lớp trí thức – con người mới XHCN (chủ yếu ở phía Bắc). Tuy vậy, cũng phải nói rằng trong hai thành phần trên thì thành phần trí thức đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa văn hóa, giáo dục, nghệ thuật là kinh khủng và kinh tởm nhất. Bởi văn hóa, giáo dục, nghệ thuật là nền tảng, là tâm hồn của xã hội và dân tộc, đất nước. Chính thành phần này chứ không phải ai khác đã thao túng và làm cho đạo đức văn hóa nước nhà ngày một trở nên suy đồi vàng thau lẫn lộn dẫn đến hệ lụy như hôm nay. Bằng chứng cụ thể và rõ ràng nhất là những lần họ “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục” nước nhà và việc họ sản xuất, nhân bản ra hàng lô hàng lốc các Thạc sĩ, Tiến sĩ…ở các “lò ấp” trên khắp cả nước nhưng vẫn cao giọng rao giảng đạo đức.

Như một hệ lụy tất yếu, từ 2000 đến nay, dưới sự bùng nổ của công nghệ truyền thông và mạng xã hội, bộ mặt văn hóa – tâm hồn của dân tộc đã phơi bày một cách trần trụi. Nếu như trước đây, có người sau một đêm thành Tiến sĩ thì bây giờ sau một giờ một kẻ ất ơ bán hàng đa cấp cũng có thể thành nhà văn, nhà báo, nhà từ thiện, nhà nghệ sĩ…; một anh nhà văn, nhà báo quèn cũng thành nhà văn hóa, nhà diễn thuyết, nhà dân chủ… có khả năng dẫn dắt chi phối cả xã hội với những danh xưng đúng mốt: facebooker, youtuber…

Thật lạ lùng và xót xa, xã hội gì mà bạn bè, anh em, đồng nghiệp, đồng chỉ có khi chỉ vì một lời bình, một cái bấm like…cũng sẵn sàng trở mặt, lao vào nhau, xem nhau như kẻ thù không đội trời chung!

Nguyên nhân và một vài biểu hiện cụ thể

Có ba nguyên nhân chính gây nên sự rối loạn nhân cách của tầng lớp trí thức Việt Nam hôm nay:

Một là, xuất phát điểm và nền tảng văn hóa xã hội của dân tộc thấp. Là một nước thuần nông và nghèo đói người Việt gần như quanh năm chỉ lo cày cấy và chống giặc ngoại xâm. Cả dân tộc, vì thế, không có truyền thống văn hóa, tư tưởng gì có thể mang đi “xuất khẩu” trái lại còn bị ảnh hưởng, lệ thuộc nặng nề từ ngoại bang phương Bắc.

Hai là, sự “đứt gãy văn hóa” do những biến cố lịch sử dân tộc mấy nghìn năm chiến tranh loạn lạc liên miên. “Thắng làm vua làm giặc” – như một thói quen tất yếu trong truyền thống phương Đông, “bên thắng cuộc” bao giờ cũng vậy việc đầu tiên sau khi đã nắm trọn quyền hành là truy tầm, thanh trừng những mầm mống còn sót lại của kẻ thù; sau nữa là “đốt sách, chôn nho” vừa để diệt trừ hậu họa vừa để thỏa mãn thói kiêu ngạo của kẻ thắng trận. Hậu quả là, những giá trị của triều đại cũ mất đi trong khi các giá trị mới chưa kịp định hình, sự đứt gãy cứ liên tục như thế làm cho con người và xã hội lạc lõng, ngơ ngác không biết bấu víu vào đâu.

Ba là, trong một xã hội chuyên chế, độc tôn có thể thấy từ sau khi đất nước thống nhất đến nay, Việt Nam không sản sinh ra được những cá nhân có tầm ảnh hưởng sâu rộng, nói như Trần Hữu Dũng đây là “thời vắng những nhà văn hóa lớn” có thể dẫn dắt, khai mở cho đám đông dân chúng.

Một dân tộc không có tư tưởng, suốt chiều dài lịch sử hết lo chuyện miếng ăn lại quay cuồng trong các cuộc chiến trước hết là một bất lợi nếu không nói là một định mệnh đầy bi kịch. Để yên ổn và thoát khỏi bi kịch điều tất yếu là phải tìm cách “ẩn mình”, “biến hình”, ngụy tạo nhằm đối phó và thích nghi. Thế nên, sự đa nhân cách của người Việt hôm nay phải chăng là một vấn đề thuộc về căn tính dân tộc có tính lịch sử?

Dẫu vậy, lịch sử đã nhiều lần sang trang, thời đại hôm nay đã khác, lẽ ra, người Việt đã có thể cải thiện hình ảnh và tự giải thoát cho chính mình nếu như biết nắm bắt cơ hội trong thế giới mở. Nhưng tiếc thay, trong một xã hội chuyên chế, sự độc đoán, độc tài về tư tưởng, một lần nữa đã đóng sập mọi cánh cửa để cho cả dân tộc có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu ở phương diện tư tưởng, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật… – những yếu tố quan trọng làm nên phẩm cách dân tộc, phẩm cách quốc gia…

Người Việt hôm nay không những không thoát ra được cái vòng luẩn quẩn mấy ngàn năm mà ngày một bị rối loạn thêm hơn. Vì để được tồn tại tất cả gần như buộc phải tiếp tục “hóa trang”, “hóa thân”, “nhập vai” để che giấu con người thật, nhân cách thật của mình một cách thuần thục và tinh vi hơn.

Hẵn chúng ta đã nghe những câu nói có tính khái quát về những vấn đề liên quan đến đời sống, xã hội và con người hôm nay như: “thằng đó đảng viên mà tốt”, “công an nhưng chơi được”, “quan chức, lãnh đạo mà tử tế”, “nhà văn mà không hèn”, “nhà báo mà không làm tiền”, “khen cho nó chết”, “cái gì không mua được bằng tiên sẽ mua bằng số tiền lớn hơn”, “nghèo thì nó ghét, đói rét nó khinh, thông minh nó tìm cách tiêu diệt”… Ngôn ngữ là tư duy, những câu nói ngắn nhưng phản ánh rất rõ tâm thế của một xã hội mà ở đó những người trí thức với vai trò dẫn dắt đã thật sự đánh mất chính mình; cho thấy sự hoang mang, bấn loạn và mất niềm tin của con người trong xã hội.

Ở phương diện khác, văn chương nghệ thuật vốn không có biên giới; có người nói văn chương nghệ thuật số phận con người, là tâm hồn dân tộc… Nhưng có lẽ chỉ ở Việt Nam là có “văn nghệ công an”, “văn nghệ quân đội”… cùng những cuộc thi với chủ đề “người lính”, người công an nhân dân… Chẳng lẽ tâm hồn và số phận dân tộc Việt Nam chỉ gói gọn trong các chủ đề ấy? Chắc chắn là không phải vậy. Nhưng từ hiện tượng này và nhìn rộng ra nhiều lĩnh vực khác nữa, cho thấy người trí thức trong xã hội Việt Nam hôm nay đang ở vào tình thế, tình huống rất ngặt nghèo: nếu muốn tiến thân thì phải chấp nhận biến hình, thỏa hiệp thậm chí bán rẻ nhân cách.

Là nhà văn, nhà báo nhưng đồng thời còn là một đảng viên, một sĩ quan, một quân nhân với lời thề tuyệt đối trung thành với Đảng thế thì anh sẽ phản ánh, phản biện như thế nào trước những bất công xã hội mà bản thân anh trong tư cách một con người đã nhận thấy rất rõ cái nguyên nhân cốt tử của nó? Nếu không có dũng khí và lòng tự trọng chỉ còn một cách duy nhất là phải tiếp tục làm “tháp Bayon 4 mặt”; tiếp tục “diễn” thôi. Nhưng “diễn” như thế nào? Nếu diễn nhạt anh sẽ không có đất sống, không có lợi cũng chẳng có danh; ngược lại chỉ cần diễn tốt một hoặc tất cả các vai mặc nhiên và chắc chắn anh là kẻ trí trá, lọc lừa, gian dối (trước hết là với chính bản thân mình).

Là một trí thức – “lương tâm thời đại” quan trọng và trước hết anh phải là người chính trực, cương trực, tự trọng cả trong suy nghĩ và lời nói, hành động. Người trí thức không thể bù khú, tụm năm tụm ba với bạn bè ở quán cóc vỉa hè thì hùng hổ, lớn tiếng mắng chửi, coi khinh quan chức lãnh đạo trong bộ máy công quyền nhưng khi gặp họ trong cuộc họp thì khép nép, bợ đỡ, luồn cúi xin chụp ảnh để làm kỷ niệm (thực ra là để tiếp tục khoe, lòe người khác “tao mới ngồi với ông Chủ tịch…” ); không phải lên mạng xã hội đóng vai nhà dân chủ với tư tưởng cấp tiến giả vờ công kích những chủ trương chính sách sai lầm của nhà cầm quyền nhằm lấy lòng đám đông chúng nhưng mặt khác lại âm thầm, lén lút “đi đêm” với thành phần biến chất để thao túng, lũng đoạn tất cả.

Là Giáo sư, Tiến sĩ, nhà giáo anh không được vừa lớn giọng bảo ngành giáo dục phải thay đổi quy trình, nâng chuẩn đầu ra trong đào tạo nhưng lại nhận phong bì để thông qua các công trình, luận án mà bản thân anh biết là kém chất lượng, không đạt yêu cầu.

Là nhà báo anh không thể vừa là cây bút chủ lực trong việc tuyên truyền trên báo chính thống về những câu chuyện tử tế nhưng đồng thời lại một facebooker, một Klos vừa tạo ra sự khủng hoảng để sau đó nhận giải cứu truyền thông bất chấp đạo đức nghề nghiệp; không thể trên báo chính thống thì anh ngoan ngoãn lấy lòng lãnh đạo nhưng lên mạng xã hội thì anh như con ngựa chứng dẫn dắt đám đông bằng những chiêu trò, câu chữ õng ẹo, rẻ tiền; hoặc khi đương chức với vai trò lãnh đạo anh đã gạt phăng những bài viết chân thực, ruột gan của đồng nghiệp và cấp dưới nhưng khi về hưu thì lại huênh hoang tự nhận mình đã từng phải khổ sở bảo vệ, thanh minh cho họ với cấp trên…

Là nhà văn, nhà thơ, nhà nghệ sĩ anh “không thể quay lưng với đồng bào để nhận huân chương của nhà nước; không được phản bội nhân dân để hưởng bổng lộc triều đình” (Bùi Chí Vinh) rồi cao ngạo, rao giảng về sứ mệnh nọ kia của người nghệ sĩ hay văn chương nghệ thuật…

Đến đây, có thể nói sự lạc hậu, trì trệ và suy đồi về đạo đức văn hóa ở xã hội Việt Nam hôm nay âu cũng là một lẽ tất yếu. Bởi chân thành mà nói, hiện tại Việt Nam không có một tầng lớp trí thức đặc biệt là trí thức tinh hoa đúng nghĩa.

Thay lời kết

Trong các báo cáo mang tính tổng kết về văn hóa xã hội Việt Nam thời gian qua, không ít người (nhà nghiên cứu, nhà cầm quyền…) cho rằng mạng xã hội (trước đó là “mặt trái của kinh tế thị trường”) là nguyên nhân chính gây ra sự loạn chuẩn hay xuống cấp về đạo đức văn hóa của đất nước. Kết luận này không phải không có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng nếu chỉ như thế thì không những rất phiến diện mà còn dễ dãi. Đặc biệt nó mang nặng tính đổ lỗi, đổ thừa cho những yếu tố “bên ngoài” hơn là dũng cảm nhìn nhận, suy xét đến các “yếu tố bên trong” nhất là vấn đề thuộc về tinh thần và thái độ của tầng lớp trí thức trong xã hội –   một trong những nguyên sâu xa và cốt tử nhất.

Mạng xã hội, suy cho cùng chỉ là phương tiện góp phần thúc đẩy và phơi bày tất cả những ngỏ ngách trong tâm hồn của dân tộc này một cách mau lẹ, nhanh chóng và trần trụi hơn mà thôi. Cái tâm hồn của một dân tộc có bề dày lịch sử mấy ngàn năm nhưng vẫn chưa chịu trưởng thành với những biểu hiện như: cảm tính, xốc nổi, chia rẽ, sân hận, chỉ thấy những mối lợi trước mắt mà không suy nghĩ đến hệ lụy lâu dài…Vì thế mà thường xuyên bị ngoại bang lợi dụng, bắt nạt, cai trị…

Người xưa nói, “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” huống hồ là một kẻ sĩ, một trí thức có điều kiện và cơ hội hơn các thành phần khác. Thế nên, thiển nghĩ, muốn thay đổi hiện trạng này, điều quan trọng nhất mà tầng lớp trí thức nước nhà hôm nay cần phải ưu tiên thực hiện đó là phải biết xấu hổ với chính bản thân mình; phải biết xấu hổ trước sự rệu rã, băng hoại đạo đức xã hội mà chính mình đã và đang vô tình hay cố ý góp phần bằng vô số các vai diễn khác nhau trên sân khấu cuộc đời để kiếm lợi, kiếm danh. Bằng ngược lại, nếu không thức tỉnh, không biết xấu hổ cũng đồng nghĩa với việc chà đạp lên cái “lương tâm thời đại”. Nhưng nếu như thế thì chắc chắn đó thái độ và hành vi của những kẻ vô liêm sỉ.

CT, Rằm tháng giêng năm Tân Sửu (25/02/2021)

                                                                         Quách Hạo Nhiên


Trí thức Miền Nam sau 1975

 

LGT: Ông Huỳnh Kim Báu, cựu Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước thành phố, cựu chủ nhiệm CLB Lê Hiếu Đằng đã qua đời lúc 7h30′ sáng 25-3-2021. Nhân dịp này, xin được giới thiệu một phần nội dung có liên quan tới ông Báu, được trích trong “Chương VI: Vượt Biên“, sách “Bên Thắng Cuộc”, của tác giả Huy Đức:

Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác, thường không câu nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.

Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.

Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài Gòn, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông nói: “Nãy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm kiểng”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là Hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là Hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói với ông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học, thì giờ đây họ lại nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn đầu tiên”.

Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đã coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Thậm chí, tại thời điểm kinh tế tan hoang, Thành ủy đã họp khẩn vấn kế các trí thức, Ông Kiệt đã thực bụng trải lòng: “Các Anh Chị suy nghĩ đề xuất giải pháp, nếu một năm nữa tình hình không chuyển biến, các Anh Chị tùy ý ra đi hay ở lại”. Gs Trung đã khẳng khái đáp: “Khi đó, nếu còn lòng tự trọng, các Anh nên tự xử cho hợp lẽ, tại sao lại đặt vấn đề chúng tôi ra đi!?”. Ông Mai Chí Thọ tím mặt. Đêm đó đòi bắt Gs Trung, nhưng Ông Kiệt “năn nỉ” bỏ qua.

Còn Giáo sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua, mình bỏ qua luôn hai, ba bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải thích thời ấy của chính quyền. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệm tối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia… Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cần kềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”

Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài Gòn, ông đã không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn còn được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.

Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ý kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu, mà những ‘cái đầu’ thì như thế!”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xã hội. Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi vã, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách gì mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì chúng ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.

Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này, một Trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi”. Tôi trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’.

Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”.Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải “phá vỡ ” để áp dụng kinh tế thị trường, chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa được chứ mất chính quyền là mất hết”. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã nói rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.

Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi, đều được chính quyền trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.

Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của mình, nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khẳng khái”.

Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi Y khoa đã bị ông đánh rớt, dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước dùng hàng ngày là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.

Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức Hiệu phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.

Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà chơi, đã đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo này của mình đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ không chịu đánh máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, mình vẫn thấy đi là đúng”.

Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước hòa bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào đóng góp được”.

Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phải vượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại, thì cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép mình sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công trình sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.

Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng, nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được tin công an Bình Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.

Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức.

Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông Kiệt, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.

Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát…

                                                                                     Huy Đức


10 quốc gia có dân số học thức nhất thế giới.

 

(Theo 24/7 Wall Street) Tổ chức Phát Triển và Hỗ Tương Kinh Tế (OECD) vừa công bố một bản khảo cứu cho biết là trong vòng 50 năm qua, số sinh viên đại học ở các quốc gia phát triển gia tăng gần 200 phần trăm.

Bản công bố này cũng liệt kê danh sách 10 quốc gia trên thế giới có cư dân học thức nhất trên thế giới.  

Đứng hàng thứ 10 là Phần Lan với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 37 %.

Sản lượng quốc gia (GDP) tính theo đầu người là 36,585 Mỹ kim 


Úc Đại Lợi là quốc gia có cư dân học thức đứng hàng thứ 9 trên thế giới, với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học cũng 37 %. Sản lượng GDP tính theo đầu người là 40, 719 Mỹ kim


Anh là quốc gia đứng hàng thứ về số dân học thức, với tỷ lệ dân số có bằng cấp cũng ở mức 37 %, và sản lượng GDP tính theo đầu người là 35, 504 Mỹ kim


Na Uy là quốc gia đứng hàng thứ 7 trong bảng sắp hạng, với sản lượng GDP ở mức 56,617 Mỹ kim một đầu người


Nam Hàn là quốc gia đứng hàng thứ 6, với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 39 %, trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 29,101 Mỹ kim

 

Quốc gia đứng hàng thứ 5 là Tân Tây Lan, với tỷ lệ dân số có bằng cấp đại học là 40 %. Sản lượng GDP mỗi đầu người chỉ ở mức 29,871 Mỹ kim


Hoa Kỳ là quốc gia đứng hàng thứ 4, với số dân có bằng cấp đại học ở mức 41 %. Trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người là 46,588 Mỹ kim


Quốc gia đứng hàng thứ 3 trong bảng danh sách là Nhật, với 44 % dần số có bằng cấp đại học. Sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 33,751 Mỹ kim


Do Thái là quốc gia đứng hàng thứ 2 trong bảng danh sách với 45 % dân số có bằng cấp đại học, trong khi sản lượng GDP mỗi đầu người chỉ ở mức 28,596 Mỹ kim


Canada là quốc gia đứng hàng đầu về trình độ trí thức, với 50 % dân số có bằng cấp đại học. Sản lượng GDP mỗi đầu người ở mức 39,070 dollars 

Phần bổ sung :

Ngoài 10 thứ hạng kể trên, quốc gia được xếp hạng THƯỢNG THỪA, vì có nhiều bằng cấp tiến sĩ nhất thế giới,

GS Nguyễn Đình Cống: ‘Nếu vào được QH tôi sẽ không chịu bị biến thành nghị gật’

 

Giáo sư Nguyễn Đình Cống, một người tuyên bố ra khỏi Đảng và tự ứng cử Quốc hội khóa XV, nói rằng thực trạng Quốc hội có nhiều nghị gật là “một thảm họa của dân tộc.” Ông chia sẻ những chức năng cần có của Quốc hội, cũng như những tồn tại yếu kém của cơ quan lập pháp Việt Nam, đồng thời nêu rõ tâm huyết, chương trình hành động của mình với mục đích tập trung vào hai mảng chính: hoạt động làm luật và hoạt động phản biện. Ông chia sẻ trên trang Facebook cá nhân: “Nếu vào được QH tôi sẽ không chịu bị biến thành nghị gật.”

Sau đây là nội dung phỏng vấn của VOA với Tiến sĩ Nguyễn Đình Cống, 83 tuổi, một giáo sư ngành xây dựng, từng nhận danh hiệu “Nhà Giáo Nhân Dân” tại trường Đại Học Xây Dựng ở Hà Nội, nhưng sau này trở thành người bất đồng chính kiến.

VOA: VOA kính chào GS Nguyễn Đình Cống. Xin giáo sư cho biết về ý định tự ứng cử ĐBQH khóa XV, khi giáo sư nộp hồ sơ thì chính quyền địa phương đã tiếp nhận như thế nào, có bị cản trở gì hay không?

GS. Nguyễn Đình Cống: Tôi năm nay ngoài 80 tuổi nhưng tôi thấy vẫn còn sức khỏe tốt, nhưng quan trọng nhất là tôi có nhiều tư tưởng, ý nghĩ, mong muốn đóng góp để xây dựng đất nước. Nếu như chỉ là một ông già, người dân bình thường thì chỉ giỏi lắm viết được vài ba chục bài báo. Tôi thấy muốn đóng góp một cách tích cực, hữu hiệu thì là vào được QH. Lý do thứ hai, tôi thực sự mong đất nước có một quốc hội đúng nghĩa quốc hội: là cơ quan đại diện cho dân. Muốn như vậy QH phải có nhiều người giỏi để làm luật, thực hiện vai trò là cơ quan lập pháp. Thêm nữa là nhân thời cơ có chủ trương có thêm nhiều người ngoài Đảng vào tham gia QH – thực giả chủ trương như thế thì chưa biết – nhưng điều này kích thích tôi và khiến tôi tự ứng cử.

Trong quá trình hoàn thiện hồ sơ phải đưa ra cho chính quyền địa phương xác nhận lý lịch và có rất nhiều khó khăn. Tôi xem đây như là một việc thử thách lòng kiên nhẫn. Thành ra hồ sơ của tôi đã làm đến lần thứ 7, và phải nói rằng rất vất vả.

VOA: Ra ứng cử lần này thì nguyện vọng và chương trình nghị sự của giáo sư là gì? Giáo sư có thể chia sẻ chương trình hành động của mình?

GS. Nguyễn Đình Cống: Chương trình hành động của tôi có mấy điểm như thế này: Việc làm luật của QH hiện nay rất yếu. QH là cơ quan lập pháp và nhiệm vụ quan trọng nhất của QH là làm luật, nhưng QH hiện nay chỉ thông qua luật chứ chưa làm luật, và luật thì ngành nào thì ngành ấy làm. Và vì vậy, có những luật rất cần cho dân thì chưa ai làm. Hỏi QH thì QH bảo điều ấy chưa có ai đề ra. Mong ước đầu tiên của tôi khi vào QH là tôi sẽ cải cách, đổi mới cách làm luật, và phải nhanh chóng ra các luật mà nhân dân đang rất cần.

Tôi theo dõi các hoạt động của QH bấy lâu nay thì thấy rằng tuy có các buổi chất vấn các bộ trưởng nhưng chưa có các buổi phản biện – phản biện những đường lối của nhà nước, của lãnh đạo…điều mà các nước gọi là tranh luận để xem họ làm đúng hay sai. QH hiện nay chưa ai làm phản biện. Khi tôi vào QH tôi sẽ đề xướng việc này, thực hiện vai trò phản biện trong QH.

Tôi vốn là một nhà khoa học, nhà giáo dục, và cũng có hiểu biết về nhiều lĩnh vực khác nhau, và tôi có thể tích cực đóng góp đặc biệt vào lĩnh vực văn hóa – giáo dục. Tôi cũng đề xuất mở cho mỗi một ĐBQH mỗi người một văn phòng và người giúp việc để hoạt động cho hiệu quả.

VOA: Vừa qua ông Hồ A Lềnh, Phó Chủ tịch – Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có nói rằng đảm bảo “cánh cửa mở rộng” cho những người tự ứng cử. Ý kiến của giáo sư về phát biểu này là như thế nào?

GS. Nguyễn Đình Cống: Cũng có điều đáng khen và điều đáng chê. Đáng khen là họ biết mở cánh cửa ra để cho người ta vào, nhưng bản chất của việc đóng và mở cửa là việc làm đáng chê trách. Việc bầu cử phải là việc mở rộng, không có cửa nào cả, mọi người được tự do. Đặt ra cửa tức là đặt ra sự độc quyền. Tư tưởng, quan niệm, và ý thức về việc có một cánh cửa như vậy là sai. Phải xóa bỏ, không có một cánh cửa nào cả. Tư tưởng của MTTQ là độc quyền, “ta có quyền mở cho ai thì người đó vào!”

VOA: MTTQ cũng đã cơ cấu số lượng người được giới thiệu ứng cử và cơ cấu người tự ứng cử. Giáo sư nghĩ gì về cách cơ cấu này?

GS. Nguyễn Đình Cống: Cách cơ cấu đó vi phạm đạo lý và vi phạm luật pháp. Việc chọn ĐBQH là do cử tri. Cử tri thích ai, đồng ý ai thì họ chọn. Còn cơ cấu như vậy là độc đoán. Khi chưa bầu thì làm sao biết được thành phần loại này loại kia. Phải chăng đó là những thủ đoạn, biện pháp không trong sáng: chốt danh sách, lập mẹo, gian dối.

Họ nên vận động cho người dân bầu xong rồi thì mới cơ cấu. Chứ chưa có danh sách ứng cử thì làm sao có bao nhiêu người loại này loại kia. Việc cơ cấu trước như vậy thể hiện quan điểm độc tài, độc đoán và tôi không tán thành việc cơ cấu.

VOA: Giáo sư nghĩ gì về lá phiếu và tiếng nói của cử tri trong các kỳ bầu cử ở Việt Nam?

GS. Nguyễn Đình Cống: Năm 1946 Việt Nam có tổng tuyển cử đầu tiên, dù sao cũng thể hiện nền dân chủ văn minh. Các kỳ bầu cử sau này, ngoài mồm thì người ta nói phổ thông đầu phiếu, gần 100% cử tri đi bầu và những người ứng cử thì được trúng cử với tỷ lệ rất cao 95-98% nhưng thật chất mà nói đó là Đảng cử dân bầu. Dân chẳng qua là theo thôi. Thật ra chưa bầu nhưng người ta đã biết ai sẽ trúng cử, thế thì còn dân chủ chỗ nào nữa!

Cái hình thức Đảng cử dân bầu là hình thức phản dân chủ nhất thế mà người ta vẫn thực hiện, vẫn chịu. Biết làm sao được!

Hiện nay có một xu hướng vận động nói rằng nên tẩy chay các cuộc bầu cử như thế, nhưng tôi nghĩ rằng thời cơ chưa đến. Cũng đành phải như thế thôi. Mình phải vận động để có nhiều người tự ứng cử.

Nhìn cuộc bầu cử QH nói là dân chủ nhưng thực sự là Đảng cử dân bầu thì như vậy chẳng còn dân chủ gì nữa. Đó là dân chủ giả hiệu mà thôi.

Việc dân chủ hóa Việt Nam đang là một vấn đề khó, một con đường gay go!

VOA: Trân trọng cảm ơn giáo sư đã dành thời gian cho VOA cuộc phỏng vấn