Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019


Tiếng nói của Tuổi Trẻ – Hãy hỏi: Làm thế nào để Việt Nam được như Hồng Kông? *


FB Lương thị Huyền



Bao giờ Việt Nam được như Hongkong?

Bao giờ Việt Nam có một Hoàng Chi Phong?

Bao giờ giới trẻ Việt Nam mới được như giới trẻ Hongkong?

So sánh giới trẻ Việt Nam với Hongkong đi?

Tôi định không trả lời những câu hỏi mà phần nhiều mang sắc thái oán than và trách móc, và nghe như tiếng thở dài bất lực này. Tôi là một người trẻ Việt Nam, nói ra ý kiến sẽ dễ bị quy chụp là chắc bị chạm tự ái nên bao biện. Nhưng cuối cùng tôi vẫn viết bài này để thêm một góc nhìn, giải đáp một phần cho những câu hỏi trên đây.

Và bởi vì tôi là một người trẻ, nên tôi đi tìm câu trả lời ở trong tôi.


Nói về người trẻ Việt Nam, tôi lập tức nhớ lại bản thân mình chỉ vài năm trước đây. Lớn lên trong một gia đình Bắc Việt, không có tư thù gì với chế độ độc tài, cho nên tôi cũng trở thành cháu ngoan Bác Hồ. Độc lập, tự do, hạnh phúc chỉ là những tiêu ngữ bắt buộc phải dùng khi viết đơn thư. Và dân chủ là cái gì, tôi gần như không có khái niệm về nó, mà câu chữ trong tiểu thuyết ngôn tình thì tôi nằm lòng lắm. Nghĩa là tôi hoàn toàn giống bạn bè tôi, nền giáo dục xã nghĩa chỉ dạy tôi được đến thế.

Sau đó, tôi vào đại học. Tôi còn nhớ rõ vẻ mặt say sưa của thầy tôi khi giảng dạy môn Tư tưởng HCM và Đường lối CM của Đảng cộng sản, trường đại học nào ở Việt Nam cũng dành kha khá thời lượng cho 2 môn này, hừm, lớn đầu rồi vẫn còn bị nhồi sọ.


Trong khi có một môn học rất thú vị tên là Thể chế Chính trị Thế giới - khái quát về các mô hình, thể chế chính trị trên thế giới, lẽ ra phải được ưu tiên giảng dạy như một môn học tiên quyết mang tính nền tảng thì họ xếp vào môn học tự chọn với thời lượng ngắn ngủi, thích học thì đăng ký, không thì thôi, không bắt buộc. Tôi may mắn đã chọn học môn này. Học xong tôi mới có những từ khoá và đặt ra những câu hỏi đầu tiên rằng tại sao chế độ của nhà nước ta ưu việt đến thế mà đất nước vẫn nghèo nàn tụt hậu, cũng là học xong tôi đã vỡ ra được rằng cái màn bầu cử ở Việt Nam tiêu tốn hàng ngàn tỷ thuế dân thực chất đều chỉ là một tấn tuồng.

Sự nhận thức của tôi thay đổi được phải mất một quá trình như thế, đến giờ cũng vẫn còn ở một trình độ rất sơ khai, bởi muốn biết cái gì phải tìm đọc trong sách vở, may mắn thì kết giao được với những người giỏi giang họ sẽ chỉ dạy thêm, chứ nào có trường lớp hay khoá học nào chỉ dạy cho từ những thuật ngữ đơn giản nhất như dân chủ là gì, tự do là gì? Vậy giờ hãy so sánh nền giáo dục mà thế hệ trẻ Việt Nam như tôi được hưởng với nền giáo dục Hongkong xem có giống nhau không mà bảo chúng tôi phải có nhận thức như họ?

Con người ta không thể yêu thương hay khao khát những thứ mà chính mình chẳng biết gì về nó, khi người ta chưa có nhận thức về tự do mà bắt người ta phải yêu tự do và liều chết để tranh đấu cho tự do thì thật hoang đường. Vì thế, nếu cứ khơi khơi so sánh tuổi trẻ Việt Nam với tuổi trẻ Hongkong thì thật hồn nhiên quá đáng.

Luận điểm trên tuy giải thích dài dòng nhưng lại chẳng quan trọng gì, bởi thực ra câu hỏi mà chúng ta cần đặt ra không phải là BAO GIỜ Việt Nam được giống như Hongkong, mà phải là LÀM THẾ NÀO để Việt Nam được như Hongkong?

Vì sao Hongkong có được nền dân trí đó, sự đấu tranh mạnh mẽ đó? 


Lý do 100 năm thuộc Anh, được hưởng một nền giáo dục tự do, nhân bản là được mọi người nêu ra nhiều nhất. Nhưng đưa ra lý do đó xong thở dài, thôi mình không có được 100 năm thuộc địa đó nên mình đành bất lực, hay là giờ mình năn nỉ Anh quốc sang đô hộ mình để 100 năm nữa mình sẽ được như Hongkong bây giờ - 1/3 dân số sẽ xuống đường để đấu tranh cho tự do? 

Tới đây thì chúng ta thường quay sang trách móc nhau, đổ thừa, phê phán, chỉ trích. Nào là giới trẻ quá hèn, tư duy nô lệ, nào là dân trí quá thấp, v.v. và mây mây. Tôi thực sự không hiểu chỉ trích và phê phán dù có hay đến mấy, có hả hê đến mấy, thì có làm cho giới trẻ bớt hèn, rồi dân trí sẽ cao hơn không vậy? 

Thay vào đó tại sao không tự vấn lại mình, mình đã dạy được cho con trẻ những gì để cho chúng có được tư duy tự do, thay vì tư duy nô lệ? Hoặc là nếu lấy mốc điểm là 100 năm sau đi chăng nữa, thì bây giờ mình đã đặt được viên gạch nào làm nền móng cho những thế hệ sau sẽ có điều kiện để có những Hoàng Chi Phong đầy bản lĩnh? Nếu không chịu gieo một hạt giống nào mà ngồi đó than van bao giờ đất nước tôi mới được hái quả ngọt đây thì tôi thấy nực cười lắm. 

Các nền dân chủ trên thế giới không lẽ là bởi người ta giỏi than nên nó rơi từ trên trời xuống? 

100 năm hiện diện trên Hương Cảng, thứ mà người Anh để lại là một nền giáo dục tiến bộ, là lòng khao khát tự do, sự kính trọng tri thức. Đây là những giá trị mà không có thế lực nào ngăn cản được sự lan truyền của nó. Thế nhưng chừng nào mà một người trẻ như tôi còn phải bơ vơ trên con đường đi tìm một giải pháp, chừng nào thế hệ trẻ còn phải dò dẫm tìm đường bởi thiếu đi những điều kiện căn bản nhất về tri thức, do thế hệ trước đã chẳng để lại gì, thì xin đừng hỏi bao giờ giới trẻ Việt Nam được như giới trẻ Hongkong đây? 

Nếu vài chục năm sau mà câu hỏi này vẫn được cất lên thì tôi chắc chắn sẽ trả lời rằng: Thế hệ trẻ kém cỏi và hèn nhát như bây giờ là bởi thế hệ tôi đã chẳng làm cái gì cả! 

L.T.H. 

Thấy gì qua vụ ông Phúc đối thoại với nông dân


Trân Văn


12-12-2019

Đọc các bài tường thuật về cuộc đối thoại lần thứ hai giữa Thủ tướng và chính phủ Việt Nam với nông dân (diễn ra hôm 10 tháng 12 tại Cần Thơ), người ta ắt phải tự hỏi: Dường như cả Thủ tướng lẫn chính phủ Việt Nam vừa không biết phải làm gì để hoạt động quản trị, điều hành thật sự hữu ích cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân, vừa là những… cao thủ trong việc chuyển hóa cả trách nhiệm cá nhân lẫn trách nhiệm tập thể cho giới chỉ quen “chân lấm, tay bùn” (1)!

Lẽ nào Thủ tướng – nhân vật đứng đầu một chính phủ – không biết phải làm thế nào để tránh: Giá thành sản phẩm cao trong khi đã hội nhập, sản phẩm nông nghiệp ngoại quốc đang ồ ạt tràn vào và sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam không cạnh tranh được! Lẽ nào chính phủ không khảo sát, không tính toán – chuẩn bị gì trước khi ký kết hàng loạt hiệp định tự do thương mại để bây giờ quay sang vấn kế nông dân: Làm gì để có sản phẩm tốt, giá thành hạ để bán cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu?

Thủ tướng không chỉ vô duyên và vô dụng khi hỏi nông dân: Nhà nước, người dân phải làm gì? Lẽ ra Thủ tướng và các thành viên trong nội các phải chủ động thông báo với nông dân, chứ không phải nêu ra các vấn nạn để nhờ 300 nông dân của các tỉnh, thành phố ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long tính giúp: Làm sao để nông dân vay được vốn. Các bộ hữu trách nên làm sao để giảm chi phí vận tải, chi phí logistic, nghiên cứu – tạo ra giống mới để thích nghi với biến đổi khí hậu…

Cứ như tường thuật của các cơ quan truyền thông thuộc hệ thống truyền thông chính thức về cuộc đối thoại vừa kể thì sau ba giờ nghe 19 nông dân nêu ra 53 câu hỏi, Thủ tướng Việt Nam chỉ có thể “đánh giá cao tâm huyết, trách nhiệm, khát vọng vươn lên của nông dân” và không thể trả lời câu hỏi nào. Động tác duy nhất là “chính phủ sẽ… tiếp thu, sẽ giao Văn phòng Chính phủ cùng Hội Nông dân Việt Nam tổng hợp các đề xuất, kiến nghị của nông dân để hình thành chủ trương, giao các bộ, ngành thực hiện”.

So cuộc đối thoại lần này với cuộc đối thoại lần thứ nhất diễn ra hồi tháng 4 năm ngoái ở Hải Dương (2), có thể thấy rất rõ là… không có gì mới! Nông dân vẫn tiếp tục than như bọng, cả Thủ tướng lẫn chính phủ tiếp tục “lắng nghe”, tiếp tục “tiếp thu” và hứa sẽ hỗ trợ. Sự khác biệt duy nhất giữa hai lần đối thoại là thay mặt chính phủ, Thủ tướng huỵch tọet: Nông dân Việt Nam phải tự nâng cao học vấn, kiến thức về khoa học công nghệ, thị trường. Phải có tinh thần tự lực, tự cường. Phải tự cứu mình, đừng chờ nhà nước cứu!

Dẫu trước nay, chính phủ nhiều quốc gia trên thế giới không ngừng suy tính – tìm đủ mọi cách để bảo trợ một cách hợp pháp và phát triển nông nghiệp một cách hợp lý, hỗ trợ nông dân làm giàu, gắn bó với nông thôn thì tại Việt Nam, ngoài việc cảnh báo nông dân phải “tự cứu”, Thủ tướng Việt Nam còn đòi nông dân phải tìm cho ra câu trả lời: “Làm gì để cùng nhà nước thực hiện câu nói của bác: Nông dân giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”!

***

Nhân danh… “bác”, Thủ tướng và các đồng chí đã ra rả về “chính sách tam nông” (nông dân, nông thôn, nông nghiệp) vài thập niên. Thậm chí, vung tiền “xây dựng nông thôn mới”. Từ 2010 đến 2015, hệ thống công quyền Việt Nam đã chi 850 tỉ cho chương trình “xây dựng nông thôn mới”, chưa kể theo một thống kê được công bố hồi cuối năm 2017, có 53/63 tỉnh, thành phố đang nợ 15.277 tỉ đồng do “xây dựng nông thôn mới” mà hệ thống công quyền từ trung ương đến địa phương chưa biết xoay tiền từ đâu ra để trả (3)!

16.000 tỉ đổ vào “xây dựng nông thôn mới” không những không làm “nông dân giàu, nước ta thịnh” mà còn tạo ra một hiện tượng mới: Nông dân trên khắp Việt Nam lũ lượt ly nông, ly hương dắt díu nhau đi làm thuê khắp nơi, kể cả ở nước ngoài! Người ta ước đoán, có 20% cư dân các tỉnh phía Bắc miền Trung, 20% cư dân các tỉnh duyên hải miền Trung, 18,4% cư dân đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã bỏ xứ tha phương cầu thực. Có những khu vực như ĐBSCL, tỉ lệ tăng trưởng dân số hiện nay là -0,13%!

Đáng nói là hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam vẫn quyết định chi thêm 193 ngàn tỉ nữa để tiếp tục “xây dựng nông thôn mới” trong năm năm từ 2016 đến 2020 (4). Năm 2019 sắp hết, hơn hai tuần nữa là đến năm 2020 – thời điểm kết thúc kế hoạch năm năm “xây dựng nông thôn mới” lần thứ hai.

Nếu đem thực trạng của nông nghiệp, nông thôn, hiện tại cũng như tương lai của nông dân đặt bên cạnh chương trình “xây dựng nông thôn mới” và các dự án đủ loại liên quan đến nông nghiệp, ắt sẽ thấy Thủ tướng và các đồng chí chưa bao giờ vì nông dân, chẳng hề đoái hoài đến nông thôn và cũng không thèm bận tâm tới nông nghiệp. Thủ tướng quả là cao… cờ khi tổ chức “đối thoại với nông dân”, vừa cam kết “lắng nghe”, vừa hứa “tiếp thu” để chi hết trăm ngàn tỉ này tới trăm ngàn tỉ khác rồi bảo nông dân… “tự cứu”!

Chú thích


(1) https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/thu-tuong-da-den-luc-nong-dan-cuu-minh-truoc-khi-doi-hoi-nha-nuoc-cuu-596660.html

(2) https://baohaiduong.vn/kinh-te—tieu-dung/thu-tuong-chinh-phu-doi-thoai-voi-nong-dan-87394

(3) http://www.thesaigontimes.vn/153485/Da-danh-hon-850000-ti-dong-cho-chuong-trinh-nong-thon-moi.html

(4) http://thanhtra.com.vn/xa-hoi/doi-song/hon-193-nghin-ty-dong-xay-dung-ntm-giai-doan-2016-2020_t114c1159n108008


BÀN MỘT CHÚT VỀ SAI PHẠM CỦA ÔNG HOÀNG TRUNG HẢI


Nguyễn Thái Nguyên


(Nhân kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đối với các sai phạm của ông Hoàng Trung Hải: “Đã có vi phạm, khuyết điểm khi cho một số ý kiến chỉ đạo đối với dự án TISCO2”)


1/ Khoảng năm 1998, trong chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải ở Trung Quốc, mang theo ý kiến chỉ đạo của ông Đỗ Mười về việc đề nghị Chính phủ Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ cho VN nâng cấp khu Gang thép Thái Nguyên và Nhà máy Phân đạm Hà Bắc. Trong hội đàm, sau khi nghe đề xuất của Thủ tướng Phan Văn Khải, Thủ tướng Chu Dung Cơ nói (tôi cho rằng đó là ý kiến rất chân tình) đại ý: Theo tôi, các đồng chí Việt nam không nên tiếp tục đầu tư vào 2 cơ sở công nghiệp này. Trung Quốc đến nay chưa có được công nghệ luyện thép chất lượng cao nên có giúp các đồng chí nâng cấp khu Gang thép Thái Nguyên cũng không hiệu quả. Đạm Hà Bắc cũng thế. Không phải chúng tôi không muốn giúp, nhưng các đồng chí VN phải tìm kiếm những hướng đầu tư khác với công nghệ hiện đại hơn.

Thế nhưng Thủ tướng Phan Văn Khải vẫn kiên trì đề xuất nên Chu Dung Cơ hứa sẽ xem xét. Đúng là Chính phủ TQ đã xem xét và có sự “viện trợ” đối với hai cơ sở “công nghiệp nặng” này. Theo tôi hiểu, không chỉ ông Đỗ Mười mà từ thời ông Lê Duẩn, lãnh đạo đảng và nhà nước VN đã hình thành một tư tưởng khá nhất quán, đó là phải có các cơ sở công nghiệp nặng “làm nền tảng” cho nền kinh tế XHCN độc lập, tự chủ, do đó mà đầu tư với bất cứ giá nào cho Cơ khí, Sắt, Thép, Xi măng... đều được coi như thực hiện kiên định Cương lĩnh, Chiến lược của đảng. Sự kiên định của Thủ tướng Phan Văn Khải là thể hiện tư tưởng chiến lược đó. Nếu nói rộng ra, không cứ Việt Nam mà Mao Trạch Đông cũng là một lãnh tụ có tư tưởng vĩ cuồng về “Đại nhảy vọt” mà nền tảng cơ bản nhất phải có vẫn là sắt thép!

Khu Gang thép Thái Nguyên là một sản phẩm đặc trưng của tư duy lý luận đó. K hông phải đến TISCO 2 thì mới xẩy ra tình trạng lãng phí, tổn thất cỡ vài bốn ngàn tỷ mà TISCO 1 là hoàn hảo. Không có chuyện như thế. Không ai thanh tra, đánh giá cái TISCO 1 ấy cả mà mặc nhiên “cái tồn tại là cái hợp lý” vậy thôi. Thế thì vì sao bây giờ lại thanh tra TISCO 2? TISCO 2 là 1 trong 12 “dự án khủng” bởi quy mô vốn đầu tư khủng, tổn thất khủng và mức độ bê bối cũng khủng, vậy vì sao TISCO 2 có vẻ bỗng nhiên trở thành vụ việc trọng điểm? Có lẽ có cả những vấn đề đã ở ngoài phạm vi kinh tế mà người viết không có hiểu biết thấu đáo nên xin không trình bày ở đây mà chỉ nêu các căn cứ kinh tế và luật pháp mà thôi.

2/ Tháng 10/2004, Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho Ban quản lý Dự án Gang thép Thái Nguyên (TISCO) lập báo cáo nghiên cứu khả thi nâng công suất sản xuất phôi thép từ 250.000 tấn lên750.000 tấn (Gọi tắt là TISCO 2). Khoảng 6 tháng sau, ngày 1/4/2005, Thủ tướng đồng ý chủ trương đầu tư với tổng vốn được duyệt chi cho dự án là 3.843 tỷ đồng (tương đương 242,5 triệu đô la theo tỷ giá 2005, 15.850 VN/1USD). Năm 2007, dựa vào “kết quả đấu thầu”, TISCO chọn và ký hợp đồng với nhà thầu, Công ty Tập đoàn xây lắp luyện kim Trung Quốc (MCC) thực hiện gói thầu lớn nhất của dự án là EPC (Thiết kế, cung cấp thiết bị, xây dựng và lắp đặt) với giá trị xấp xỉ 161 triệu đô la. Cùng với đó là sự cam kết mức giá này là “trọn gói, không thay đổi”. Sau một thời gian tiến hành đủ các thủ tục đầu tư và tiến hành triển khai dự án, đến năm 2012, dự án không những không được triển khai đúng theo kế hoạch mà còn xuất hiện nhiều “trục trặc” chủ yếu do nhà tổng thầu TQ không thể triển khai vì... “thiếu vốn”!

3/ Tháng 8/2012, TISCO và Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNS) đã có báo cáo lên Bộ Công thương về khó khăn và đề nghị được điều chỉnh vốn lên mức 8.104 tỷ đồng (tăng thêm 4.261 tỷ, gấp 2,1 lần tổng mức đầu tư đã duyệt chi của Thủ tướng trước khi đấu thầu). Không lâu sau, Bộ Công thương đã có báo cáo trình Thủ tướng đề nghị điều chỉnh tổng mức đầu tư dự án từ 3.843 tỷ đồng lên 8.104 tỷ như đề nghị của TISCO và VNS.

Từ văn bản này của Bộ Công thương, theo chỉ đạo của PTTg Hoàng Trung Hải, VPCP đã có công văn gửi các cơ quan: Bộ Tài Chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng và Ngân hàng Nhà nước đề nghị các ngành này cho ý kiến để có cơ sở trình Thủ tướng xem xét quyết định. Tuy mức độ có khác nhau, nhưng cả 4 cơ quan này đều không đồng tình việc điều chỉnh tổng mức đầu tư lớn như vậy. Bộ KH&ĐT còn khẳng định việc điều chỉnh nhiều hạng mục đầu tư do nhà thầu đưa ra không hợp lý và không có cơ sở pháp lý. Bộ Xây dựng khẳng định, dự án được triển khai theo hợp đồng EPC vì vậy, việc quản lý thực hiện hợp đồng phải theo đúng hợp đồng đã ký, không tùy tiện thay đổi các hạng mục đầu tư và nâng mức đầu tư được. Trong công văn trả lời của Bộ Tài chính cũng khẳng định chi phí tăng thêm như đề nghị của Bộ Công thương là không hợp lý. Ngân hàng Nhà nước cho rằng hơn 72% số tiền xin điều chỉnh tăng, chủ yếu là tăng thêm hơn 3.000 tỷ cho gói thầu EPC số 1 do nhà thầu Trung Quốc MCC thực hiện là “bất thường”...

Trong khi các bộ ngành chức năng đều có ý kiến không đồng tình với đề xuất của TISCO, VNS và Bộ Công Thương thì không hiểu Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải căn cứ vào đâu, đã đưa ra quyết định: “Giao HĐQT VNS quyết định và chịu trách nhiệm về điều chỉnh Tổng mức đầu tư dự án theo quy định hiện hành đảm bảo hiệu quả, nếu vượt hạn mức, giao Thống đốc NHNN và Bộ trưởng Bộ Tài chính trình Thủ tướng xem xét”. Văn bản cũng nói rõ: Giao cho ngân hàng Phát triển Việt nam Vietinbank, Ngân hàng Công thương cho vay tiếp (Thông báo của VPCP về ý kiến của Phó Thủ tướng CP Hoàng Trung Hải, số 3136 ngày 22/2/2013). Đây là một hiện tượng rất bất bình thường ở VPCP vì nó trái với các quy chế và trình tự thủ tục mà VPCP phải chuẩn bị để Thủ tướng và các Phó Thủ tướng Chính phủ ra các quyết định xử lý công việc thường xuyên. Mặt khác, VPCP là một cơ quan Tham mưu giúp việc Thủ tướng và Chính phủ, không hề có quyền bất chấp ý kiến không đồng tình của các bộ ngành chức năng để tham mưu sai lầm cho lãnh đạo Chính phủ.

Theo tôi, ở đây rất có thể đã có một “Quy trình ngược”: Ý kiến quyết định của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải có trước, VPCP đã không nghiêm túc trong vai trò tham mưu của mình với Phó Thủ tướng. Thông thường, những trường hợp tương tự như vậy, VPCP phải báo cáo ý kiến của các ngành và cả của Phó Thủ tướng lên Thủ tướng chứ không được phép “hợp thức hóa” ý kiến của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải bằng các văn bản dưới luật như trên. Đây là điều cấm kỵ đối với bất cứ chuyên viên và lãnh đạo nào của VPCP. Tôi không nghĩ VPCP đã thay đổi quy chế làm việc truyền thống đó. 

Dù nội dung văn bản này rất tù mù về việc “chịu trách nhiệm điều chỉnh tổng mức đầu tư của dự án” là bao nhiêu và “nếu vượt hạn mức...” là hạn mức nào? Dù là thế, nhưng những người “trong cuộc” hay “trong nhóm” thì hiểu rõ, hiểu hết. “Được lời như cởi tấm lòng”, ông Chủ tịch đã không để lâu, ngày 15/5/2013, Chủ tịch HĐQT TISCO đã ký quyết định nâng tổng mức đầu tư của dự án từ 3.843 tỷ lên 8.104 tỷ. Trong trường hợp này, ông Chủ tịch HĐQT một doanh nghiệp, được PTTg cho phép đã có quyền hạn to hơn cả Thủ tướng. Với quy mô số tiền tăng thêm so với tổng mức đầu tư một dự án 4.261 tỷ đồng (tương đương 269 triệu đô la theo thời giá 2015) thì không Thủ tướng nào tự quyết một mình như thế mà Thủ tướng sẽ yêu cầu VPCP đưa vào nội dung họp Chính phủ và xử lý vấn đề ấy ở tầm Chính phủ. Với cách làm này, không chỉ đối với một dự án TISCO mà xẩy ra ở hàng chục dự án còn to hơn TISCO thì ai cũng hiểu vì sao nợ công tăng nhanh và cao ngất ngưởng mà hiệu quả nền kinh tế lại rất thấp. Chỉ có điều, những người thực thi công vụ bừa bãi gây tổn thất rất lớn cho đất nước như đối với dự án TISCO không hề phạm tội tham nhũng. Những tài sản và tiền bạc họ tham nhũng được đều an toàn vô sự. Với tổng mức đầu tư lớn như vậy, nhưng dự án này đã “tạm dừng” từ năm 2013, “hiện một số thiết bị đã rỉ sét, hư hỏng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ, chất lượng dự án, thiệt hại vốn đầu tư” (Kết luận của Thanh tra Chính phủ). Cái còn lại hoành tráng nhất, đáng giá nhất liên quan đến dự án TISCO có lẽ là ngôi biệt thự của ông Chủ tịch HĐQT TISCO.

4/ Mặc dù phía nhà thầu Trung Quốc MCC đã vi phạm nhiều khoản mục đầu tư, chưa chuyển đủ thiết bị theo danh mục, đồng thời cung cấp nhiều máy móc thiết bị đã hư hỏng, sai lệch về xuất xứ, nhà cung cấp cũng như về thông số kỹ thuật không phù hợp với quy chuẩn Việt Nam... (Kết luận của Thanh tra Chính phủ) nhưng điều lạ lùng là TISCO đã được Phó Thủ tướng “đồng ý để TISCO thanh toán các khoản chi phí cho MCC” (Thông báo 196 của VPCP ngày 11/6/2015). Tất nhiên thông báo này cũng không nói rõ “thanh toán” những khoản mục nào và bao nhiêu. Nhưng căn cứ vào kết luận của Thanh tra Chính phủ thì bất chấp phía MCC đã vi phạm hợp đồng, triển khai dựa án, kể cả việc cung cấp thiết bị chậm, thiếu nhiều hạng mục, dự án đã phải “đắp chiếu” từ năm 2013, vậy mà TISCO lại rất hào phóng thanh toán gần hết tổng chi phí dự án: tổng số gần 4.500 tỷ đồng, trong đó chi phí thiết bị hơn 2.100 tỷ đồng, chi phí xây dựng gần 1.000 tỷ đồng... Nghĩa là đã thanh toán gần 93% giá trị hợp đồng (Phần E-Thiết kế là 2,9 triệu đô la/3,1 triệu đô la, chiếm 92,77%; Phần P là 106,6 triệu đô la/114,8 triệu đô la, chiếm 92,89%) . TISCO còn “thanh toán hộ” cho MCC 11,6 triệu đô la tiền thuế và khoảng 5 tỷ đồng các khoản chi phí bốc xếp, bảo quan thiết bị...

Với ông Hoàng Trung Hải, Ủy ban Kiểm tra Trung ương chỉ dám kết luận “có vi phạm, khuyết điểm khi cho một số ý kiến chỉ đạo đối với dự án TISCO 2” và vi phạm này “đến mức phải xem xét kỷ luật”. Còn ông Tổng Bí thư, dù phải cân nhắc nhiều bề, dù có chịu sức ép của các đồng chí của ông từ Trung Nam hải thì chắc cũng không thể bỏ qua những sai phạm tày đình này, nhất là Đại hội 13 đã cận kề. Nếu cứ dung túng những con người và những hành vi vi phạm này thì kỷ cương phép nước sẽ không còn được tôn trọng, công cuộc chống tham nhũng rất được lòng dân sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Chắc chắn còn nhiều vấn đề “chưa rõ” trong việc thực hiện dự án này không khó để làm rõ trong thời gian tới./.

Hà nội 12/12/2019
Nguyễn Thái Nguyên


Việt Nam 2019: Chưa thoát khỏi ngã ba đường

Nguyễn Quang Dy


Cứ đến cuối năm, thời gian thường trôi nhanh “tựa cánh chim bay”. Người ta nói “năm con heo” là năm cuối của 12 con giáp nên thường có nhiều biến động. Những người bi quan cho rằng Việt Nam đang “họa vô đơn chí”, còn những người lạc quan trông chờ vào quy luật “cùng tắc biến”. Trong khi cánh cửa cơ hội cho Việt Nam đang khép lại thì thách thức ngày càng nhiều và nguy cơ ngày càng lớn. Muốn dự báo năm mới phải nhìn lại năm cũ. Chưa biết triển vọng năm 2020 sẽ thế nào, nhưng đến cuối 2019, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi ngã ba đường. Có nhiều nguyên nhân, nhưng dường như “Hà Nội không vội được đâu”!

Tứ trụ hay Tam trụ

Về đối nội, ông Trần Đại Quang ra đi khá vội vàng (21/9/2018) đã để lại một lỗ hổng quyền lực và một cơ hội để ông Nguyễn Phú Trọng tập trung quyền lực vào một mối (TBT & CTN). Hệ quả là cấu trúc quyền lực “Tứ trụ” (truyền thống) nay trở thành “Tam trụ” (lâm thời). Dù Việt Nam chưa sẵn sàng “nhất thể hóa” nhưng ông Trọng đã củng cố được quyền lực, vượt lên trên thiên hạ để “thế thiên hành đạo” (như ông Tập Cận Bình bên Trung Quốc).

Có người lập luận rằng mô hình “Tam trụ” vững như “kiềng ba chân” vì dựa trên “thế ỷ dốc”, nhưng nhiều người khác lại cho rằng về nguyên lý, mô hình “Tứ trụ” (Quad) thường ổn định hơn mô hình “Tam trụ” (Triad). Thời “Tam quốc” bên Tầu thường loạn lạc và nội chiến liên miên. Lâu nay, Việt Nam vẫn áp dụng “cơ chế ba mặt” (đảng, chính quyền, công đoàn) để quản trị, như mô hình “Tổ Tam tam” (ba người) nhằm kiểm soát lẫn nhau.

Về lý thuyết, “cơ chế ba mặt” được áp dụng nhằm “phát huy quyền làm chủ tập thể”, nhưng trên thực tế có thể làm triệt tiêu năng lực sáng tạo của con người và trách nhiệm cá nhân trong quản trị. “Nhất thể hóa” là một ý tưởng hay nếu áp dụng nghiêm túc, nhưng “Tam trụ” không phải là “Tam quyền Phân lập” mà chỉ là “bình mới rượu cũ” (vì cùng mẫu số).

Einstein từng nói “người ta không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư duy đã tạo ra vấn đề đó”.

Nhưng khi đã tập trung và củng cố được quyền lực, ông Nguyễn Phú Trọng tự tin hơn để tăng cường chiến dịch “đốt lò”, xử lý tiếp các vụ án lớn (như bắt bộ trưởng Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, và Phạm Nhật Vũ, khởi tố cựu đô đốc Nguyễn Văn Hiến). Có dấu hiệu ông Trọng cân nhắc đến khả năng cải cách thể chế khi công khai đặt ra 3 vấn đề cốt lõi: Một là có nên xóa bỏ thành phần kinh tế nhà nước hay không? Hai là đổi mới thể chế chính trị có phải là đổi mới chế độ hay không? Ba là có cần sửa đổi điều lệ Đảng hay không?

Như “đến hẹn lại lên”, Hội nghị Trung Ương 11 (7-12/10/2019) bắt đầu chuẩn bị văn kiện và nhân sự cho Đại hội Đảng 13, và lần đầu tiên ông Trọng đã đề cập đến vấn đề Biển Đông. Trong diễn văn khai mạc, ông kêu gọi “kiên quyết và kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo theo luật quốc tế”. Trong diễn văn bế mạc, ông nhấn mạnh “phải phân tích và dự báo trên cơ sở tư duy khoa học tình hình thế giới và Việt Nam, đặc biệt là về Biển Đông”. Dư luận cho rằng đó là một chuyển biến đáng kể, nhưng vẫn chưa theo kịp với thực tế.

Bức tranh kinh tế

Theo Moody’s 2020 report (10/10/2019), Tuy GDP tăng 6,8% nhưng Việt Nam có thể bị hạ mức tín nhiệm vì chậm thanh toán nợ tới hạn, làm mất khả năng thanh toán, có thể dẫn tới vỡ nợ quốc gia. Chính phủ nợ nước ngoài hơn 100 tỷ USD, và các doanh nghiệp nợ nước ngoài 100 tỷ USD, cộng lại thành hơn 200 tỷ USD, gần bằng toàn bộ GDP của Việt Nam. Ngoài nợ nước ngoài, Việt nam còn nợ trong nước, tương đương 200 tỷ USD gồm nợ của chính phủ và doanh nghiệp. Gần đây, Thống đốc Lê Minh Hưng đã báo cáo Quốc hội về khoản 53.000 tỷ VNĐ mà các ngân hàng đã cho vay để làm BOT, có nguy cơ trở thành nợ xấu.

Ngoài số nợ nước ngoài 200 tỷ USD được thống kê chính thức, có thể phát sinh những khoản nợ nước ngoài khác từ các doanh nghiệp chưa được thống kê. Tháng 9/2019, Tổng cục Thống kê đã bất ngờ công bố phát hiện thêm 76.000 doanh nghiệp trước đó không có trong sổ sách. Động cơ của việc công bố này là nhằm làm tăng thêm GDP để “lấy thành tích chào mừng Đại hội Đảng”. Nhưng số phát sinh này chiếm hơn 10% tổng số doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam, trong đó chắc có nhiều khoản vay nước ngoài mà Bộ Tài chính không biết.

World Bank cho biết trong 3 năm tới có khoảng 50% nợ trong nước của Chính phủ đáo hạn, và Chính phủ vẫn chưa biết lấy đâu ra tiền để trả nợ (trừ việc in tiền ồ ạt), và có khoảng 30% số doanh nghiệp nhà nước không có khả năng trả nợ nên đối mặt với nguy cơ phá sản, nếu chính phủ từ chối trả nợ thay cho các doanh nghiệp nhà nước. Moody sẽ xem xét hạ mức đánh giá 17 ngân hàng, nên 50% các ngân hàng Việt Nam sẽ bị hạ mức tín nhiệm.

Theo VietNamNet (21/10/2019), trong báo cáo về nợ công năm 2020, Chính phủ Việt Nam cần vay thêm 459 nghìn tỷ VNĐ để cân đối ngân sách, trong đó bao gồm khoản bù đắp bội chi ngân sách là 217 nghìn tỷ VNĐ, khoản trả nợ gốc của ngân sách trung ương là 217 nghìn tỷ VNĐ, và nhận nợ bảo hiểm xã hội là 9,1 nghìn tỷ VNĐ. Dự kiến nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ trong năm 2020 là 379 nghìn tỷ VNĐ. Dự báo đến cuối năm 2020 Việt Nam có mức nợ công khoảng 54,3% GDP, nợ chính phủ khoảng 48,5% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia là 45,5% GDP. Việc phải đi vay để bù đắp bội chi ngân sách có nghĩa là tiền làm ra vẫn chưa đủ đáp ứng chi tiêu thường xuyên, và chính phủ vẫn phải “vay nợ mới để trả nợ cũ”.

Tuy dự luật “ba đặc khu” bị dư luận phản đối quyết liệt buộc Quốc Hội phải hoãn (vô thời hạn), nhưng chắc các nhóm lợi ích không chịu bỏ cuộc, vẫn tìm cách thao túng chính sách như miễn thị thực cho người nước ngoài vào khu kinh tế ven biển (như Vân Đồn và Phú Quốc). Tuy dự án đường cao tốc Bắc Nam (đường bộ và đường sắt) cũng bị dư luận phản ứng quyết liệt buộc Bộ GT-VT hủy bỏ kết quả đấu thầu quốc tế để tạo điều kiện cho các nhà thầu trong nước tham gia, nhưng họ vẫn thúc đẩy dự án đường sắt Hà Khẩu-Lào Cai-Hải phòng (khổ 1,435m, với 39 nhà ga, 73 chiếc cầu dài 130km, và 25 đường hầm chui 25km) do Trung Quốc thiết kế và xây dựng (kinh phí 100.000 tỷ VNĐ). Đây là một mắt xích trong kế hoạch “Một vành đai, Một con đường”, chủ yếu nhằm phục vụ lợi ích chiến lược của Trung Quốc. 

Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, “Việt Nam khuyến khích đầu tư nước ngoài, không cần biết là các dự án đó chỉ dùng công nghệ lạc hậu, ô nhiễm, và lao động không chuyên giá rẻ làm hàng xuất khẩu sang Mỹ và các nước khác, và cũng không cần biết đến vốn đi từ đâu, mà thực chất một phần không nhỏ là mượn từ ngân hàng Việt Nam…Đến nay, Việt Nam chỉ là bàn đạp, thậm chí là bãi rác cho nước khác làm hàng xuất khẩu xâm nhập vào Mỹ và các nước khác”. Theo ông Việt, Việt Nam cần xem xét kỹ có nên tham gia RCEP hay không, sau khi Ấn Độ và Nhật đã quyết định rút. Đây là hiệp định mà Trung Quốc cổ vũ mạnh mẽ nhằm đối địch với TPP không có Trung Quốc (mà Mỹ đã rút) để giúp Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng với kinh tế với các nước ASEAN trong chiến lược “Một vành đai, Một con đường” của họ. 

Trong bối cảnh đối đầu Việt-Trung tại bãi Tư Chính, Việt Nam cần rà soát lại các dự án có rủi ro về an ninh quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 50-NQ/TW (20/8/2019). Trả lời chất vấn tại Quốc Hội (9/11/2019) Ngoại trưởng Phạm Bình Minh thừa nhận có hàng trăm doanh nghiệp Việt đứng tên thay cho người nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc) đầu tư kinh doanh bất động sản và du lịch dưới nhiều hình thức “núp bóng”. Các dự án này thường chiếm vị trí xung yếu về an ninh quốc phòng, tiềm ẩn nhiều nguy cơ và hậu họa khôn lường.

Đối đầu tại Bãi Tư Chính

Về đối ngoại, Hà Nội đã tự tin hơn khi đăng cai tổ chức họp cấp cao Trump-Kim (3/2019) và ông Trọng đã nhận lời đi thăm Mỹ khi ông Trump trực tiếp mời (như một cách cám ơn). Đây là một thắng lợi quan trọng về ngoại giao trong năm 2019. Hội thảo về định hướng hợp tác chiến lược Mỹ-Việt cấp thứ trưởng tại Washington (4/2019) là một dấu hiệu tích cực, tuy năm trước Việt Nam đã lặng lẽ hủy bỏ 15 họat động giao lưu quốc phòng với Mỹ (cho năm 2019). Theo các chuyên gia, đó là động thái đối phó tình huống vì sức ép Trung Quốc. 

Nhưng điều bất ngờ (và khá bí ẩn) là ông Trọng đã “gặp hạn” khi đến Kiên Giang (14/4/2019) phải cấp cứu vào bệnh viện điều trị. Dù dư luận đồn đại về “bệnh thật hay giả”, nhưng kế hoạch thăm Mỹ năm 2019 của ông Trọng không thực hiện được (vì lý do sức khỏe hay lý do chính trị). Lúc đầu dự kiến đi vào tháng 7, sau dự kiến đi vào tháng 10, nay phải lùi sang năm, nhưng 2020 là năm tranh cử tổng thống Mỹ nên càng dễ rủi ro. Kết cục là cuối năm 2019 Việt Nam vẫn chưa nâng cấp quan hệ với Mỹ lên đối tác chiến lược như dư luận mong đợi. 

Trong khi đó, Trung Quốc cho tàu khảo sát HD-8, có nhiều tàu tuần duyên vũ trang hộ tống, xâm nhập vùng biển của Việt Nam (từ 3/7/2019) dẫn đến đối đầu tại Bãi Tư Chính và khủng hoảng Biển Đông “lần hai” (“lần đầu” là năm 2014). Họ vừa thăm dò địa chấn vừa quấy rối các hoạt động dầu khí của Việt Nam tại dự án Lan Tây-Lan Đỏ (lô 06-01) liên doanh với Rosneft (Nga) và ONGC (Ấn Độ) tại Nam Côn Sơn, gần bãi Tư Chính. Sau đó HD-8 chuyển lên thăm dò khu vực ven biển từ Phan Thiết đến Quảng Ngãi, cách bờ có 70 hải lý.

Mấy tháng qua, Trung Quốc đã dùng vũ lực quấy rối và xâm lấn Việt Nam tại Bãi Tư Chính, bất chấp luật biển quốc tế và phán quyết PCA. Họ ngang ngược coi Bãi Tư Chính là “vùng tranh chấp” và còn tuyên bố là “lãnh thổ của Trung Quốc”. Hành động xâm lấn này đã buộc Việt Nam phải có thái độ cứng rắn hơn, và làm dư luận quốc tế (đặc biệt là Mỹ) lên án Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam. Trên thực tế, Trung Quốc đang xô đẩy Việt Nam về phía Mỹ, làm nhiều trí thức và quan chức đòi kiện Trung Quốc và nâng cấp đối tác chiến lược với Mỹ.

Điều đó được phản ánh rõ trong mấy bài viết gần đây của ông Vũ Ngọc Hoàng (nguyên ủy viên trung ương và phó ban tuyên giáo), và Tọa đàm Khoa học “Vùng biển Bãi Tư chính và luật quốc tế” do viện PLD tổ chức tại Hà Nội (6/10/2019). Trong diễn văn khai mạc và bế mạc Hội nghị Trung Ương 11 (7-12/10/2019) ông Nguyễn Phú Trọng đã chính thức lên tiếng về vấn đề Biển Đông. Tuy dư luận quốc tế cho rẳng thái độ của Việt Nam cứng rắn hơn, nhưng dư luận trong nước cho rằng như vậy vẫn còn “quá ít và quá muộn” (too little too late).

Tại Hội thảo Quốc tế về Biển Đông lần thứ 11 (6/11/2019), đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã xác nhận đang “cân nhắc kiện Trung Quốc”. Thực ra Việt Nam đã cân nhắc kiện từ năm 2014. Theo Gregory Poling (AMTI/CSIS), khi Việt Nam làm thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ và Chủ tịch ASEAN vào năm tới, nếu chỉ đề cập đến căng thẳng Biển Đông một cách chung chung mà không dám gọi tên Trung Quốc là kẻ gây ra căng thẳng (vì “đại cục”) thì cũng như không, vì chẳng có gì mới để quốc tế ủng hộ mạnh hơn. 

Khủng hoảng Biển Đông

Khủng hoảng Biển Đông “lần đầu” (5/2014) đã làm người Việt bị sốc và quan hệ Việt-Trung lâm vào khủng hoảng, nhưng chưa đổ vỡ vì “đại cục” như cái vòng kim cô trói buộc Việt Nam từ sau Thành Đô (9/1990). Nay khủng hoảng “lần thứ hai” (2019) còn tiếp diễn (on and off). Theo Ryan Martinson (học viện hải quân Mỹ), Trung Quốc “quyết tâm ngăn chặn Việt Nam khai thác tài nguyên dưới đáy biển” sau khi Rosneft thuê giàn khoan Hakuryu 5 (của Nhật) để khoan thăm dò gần Bãi Tư Chính. Trung Quốc không chỉ quấy rối và bắt nạt, mà còn ngang ngược lên án Việt Nam “đơn phương vi phạm chủ quyền Trung Quốc”. 

Đó là hành động “vừa ăn cướp vừa la làng”, vì Trung Quốc đuối lý trước dư luận quốc tế, nên phải dùng sức mạnh để bắt nạt các nước khu vực trong “vùng xám” (grey area), và tìm cách gạt Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi Biển Đông. Mục tiêu của họ là áp đặt “đường chín đoạn”, để từng bước lấn chiếm Biển Đông như “chuyện đã rồi” (fait acommpi), tiến tới kiểm soát Biển Đông như “cái ao của họ”. Trung Quốc đã quân sự hóa và biến các đảo đá mà họ chiếm của Việt Nam tại Trường Sa (1988) thành các căn cứ quân sự và hậu cần (như Chữ Thập, Ru Bi, Vành Khăn). Việt Nam càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới.

Tiếp theo các tuyên bố của ông John Bolton và Mike Pompeo (trước đó), trợ lý Ngoại trưởng David Stilwell đã điều trần (gần đây) tại Tiểu ban Đông Á-Thái Bình Dương thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, nhấn mạnh rằng Trung Quốc tiếp tục đe dọa và bắt nạt các nước khác tại Biển Đông. Họ muốn hợp pháp hóa bộ quy tắc ứng xử (COC) có hại cho khu vực và tất cả các nước coi trọng tự do hàng hải. “Sự quấy rối liên tục của Trung Quốc đối với các hoạt động của Việt Nam xung quanh Bãi Tư Chính là một trường hợp rõ rệt”. 

Theo VOA (25/10/2019), trong bài phát biểu về quan hệ Mỹ-Trung tại Trung tâm Woodrow Wilson (24/10/2019), Phó Tổng thống Mike Pence đã tố cáo cách hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc, gây mất ổn định nhiều hơn cho khu vực trong năm qua. Ông Mike Pence nói Bắc Kinh đã gia tăng sử dụng cấc tàu “dân quân biển” để thường xuyên đe dọa các thủy thủ và ngư dân Philippines và Malaysia. Ông chỉ trích Trung Quốc bắt nạt Việt Nam trong vụ tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông. “Cảnh sát biển Trung Quốc đã lấy thịt đè người để ngăn cản Việt Nam khoan dầu khí ngoài khơi trong vùng biển của chính mình”.

Ông Derek Grossman (RAND Corporation) bình luận “việc Trung Quốc bắt nạt Việt Nam tại Biển Đông đã được Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence nêu bật”, và “không có một nước nào đứng lên để bảo vệ Việt Nam như Mỹ”. Nhưng trong khi Việt Nam đối đầu với Trung Quốc tại Bãi Tư Chính và khủng hoảng Biển Đông “lần hai”, gần đây có tin đồn ExxonMobil định bỏ dự án Cá Voi Xanh. Tuy chưa rõ nguyên nhân do sức ép của Trung Quốc hay do tính toán thương mại, nhưng nếu ExxonMobil rút thật thì đây là tin mừng cho Bắc Kinh. 

Theo đánh giá của các chuyên gia, các tuyên bố về điều chỉnh chiến lược của Mỹ (như NSS 2017, NDS 2018, và Indo-Pacific Strategy 2019) đã nhấn mạnh cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung. “Đồng thuận Washington mới” về chiến lược đối với Trung Quốc có thể tạo ra điều kiện thuận lợi để các nước có quan điểm cứng rắn hơn tại Biển Đông.

Việt Nam vẫn cô đơn

Theo Marine Traffic (Reuters, 24/10/2019), tàu khảo sát HD-8 và các tàu hộ vệ đã rời khỏi vùng biển Việt Nam trở về Trung Quốc. Họ đã “hoàn thành nhiệm vụ” sau 3 tháng khảo sát địa chấn nhằm khẳng định chủ quyền trong “đường chín đoạn” và quấy rối gây sức ép đòi Việt Nam đình chỉ các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí tại đây. Tuy Trung Quốc rút tàu HD-8 về nhưng ý đồ lâu dài của họ không thay đổi. Trong tháng 11/2019, họ lại cho tàu HD-620 và HD-9 xâm phạm vùng biển EEZ của Việt Nam và Malaysia để khảo sát trái phép. Sẽ không ngạc nhiên nếu Trung Quốc điều dàn khoan vào thăm dò tại những nơi họ vừa khảo sát.

Theo ông Carl Thayer, thông điệp của ông Nguyễn Phú Trọng gần đây khi đề cập đến vấn đề chủ quyền Biển Đông báo hiệu rằng Hà Nội khó có thể lùi bước trước Bắc Kinh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hai nước “quyết không để mất một tấc đất nào do tổ tiên để lại” thì bàn cờ phân định thắng thua vì lợi ích quốc gia phải đảm bảo khả năng quốc phòng và quốc tế vận cao nhất. Trong cuộc chơi này, dù Hà Nội tuyên bố cứng rắn hơn “không bao giờ thỏa hiệp”, nhưng cách thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trong 3 tháng qua tại Biển Đông cho thấy sự chênh lệch về năng lực quân sự, và sự cô đơn của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền. 

Trong mấy tháng qua, Việt Nam đã phải đối phó chật vật với Trung Quốc và khả năng đối đầu tại Biển Đông sẽ còn tái diễn trong thời gian tới, nếu vấn đề đối tác chiến lược và liên minh quân sự vẫn bất khả thi vì chính sách “ba không” của Việt Nam. Trong bài trả lời phỏng vấn RFI (26/10/2019) ông Vũ Ngọc Hoàng nhấn mạnh rằng chỉ có dân chủ hóa mới tập hợp được sức mạnh dân tộc để bảo vệ tổ quốc và phát triển đất nước. Trong bối cảnh Việt Nam bị Trung Quốc xâm lấn thì Việt Nam cần phải liên minh với Mỹ và các nước khác. 

Ngoài Mỹ và Nga, Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng với Nhật và EU. Đại tướng Ngô Xuân Lịch đã thăm châu Âu (14-19/10/2019) để tăng cường hợp tác quốc phòng. Điều đó có thể làm Hà Nội tự tin hơn và “bớt cô đơn” trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Nhưng các hoạt động ngoại giao (hình thức) không hỗ trợ được về quân sự (thực chất). Tuy các hoạt động ngoại giao đó là cần thiết nhưng chưa tương xứng với tình hình Biển Đông. Nếu Việt Nam vẫn cô đơn về đối tác chiến lược thì các hoạt động ngoại giao không đủ răn đe Trung Quốc xâm lấn, dù Việt Nam có tiến tới kiện Trung Quốc tại tòa án quốc tế về luật biển.

Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố (17/5/2019) “không đối tượng nào được tiến hành khai thác dầu khí hoặc các tài nguyên khác ở vùng biển Trung Quốc”. Nhưng theo Rosneft (17/5/2019) hoạt động khoan thăm dò của họ vẫn diễn ra trong vùng biển của Việt Nam. Bennet Murray viết (Foreign Policy, Oct 30, 2018) “Dù Nga chưa bao giờ chính thức đứng về phía Việt Nam trong vấn đề Biển Đông, nhưng hiện chỉ có Nga đang hoạt động dầu khí tại khu vực Việt Nam khẳng định chủ quyền (trong “Đường Chín Đoạn”). Putin và Tập không công khai chống lại lợi ích của nhau, nhưng không có nghĩa là họ không xung đột lợi ích. Theo David Hutt (Asia Times, Aug 21, 2019) “một trong những lý do khiến lần này Việt Nam cứng rắn hơn trước là do có các đồng minh mạnh hơn. Ngoài Mỹ, Nhật, Pháp, EU, Việt Nam còn có Nga”.

Nhưng theo Anders Corr (Journal of Political Risks), chỉ có Mỹ mới đủ điều kiện trở thành đồng minh cốt lõi đủ sức chống lại Trung Quốc. Còn Nga, Úc, Ấn Độ có thể là đối tác chiến lược hữu ích nhưng không đủ khả năng làm đồng minh cốt lõi vì họ thiếu sức mạnh cần thiết để chống lại Trung Quốc. ASEAN cũng không thể hỗ trợ nhiều cho Việt Nam trong bối cảnh các nước thành viên ngày càng chịu ảnh hưởng lớn của Bắc Kinh, nên thường phủ quyết mọi chỉ trích Trung Quốc. Hội nghị Cấp cao ASEAN 35 (Bangkok, 2-4/11/2019) cũng không ngoại lệ. Hy vọng năm 2020 Mỹ sẽ thúc đẩy quan hệ với ASEAN bằng họp summit tại Mỹ. 

Để chống lại Trung Quốc, Anders Corr cho rằng Việt Nam cần một chiến lược mới trong đó có 4 thành tố quan trọng. Một là liên minh với các nước có thể răn đe Trung Quốc ở mức cao nhất (như Mỹ, Pháp, Anh). Hai là liên minh với các nước có đủ năng lực triển khai nhanh lực lượng quân sự thông thường để răn đe Trung Quốc (như Mỹ). Ba là vận dụng thành quả kinh tế để nâng mức chi tiêu quân sự nhằm răn đe Trung Quốc (như mua thêm tàu ngầm và tên lửa). Bốn là dân chủ hóa và cải thiện nhân quyền để tạo điều kiện thuận lợi cho liên minh kinh tế và quân sự chặt chẽ hơn với các nước chịu ảnh hưởng ít nhất của Trung Quốc.

Quá ít và quá chậm

Cần xem xét các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam trong bối cảnh thế giới và khu vực đang diễn biến khó lường. Muốn cải cách và phát triển đất nước, phải dựa vào nội lực là chính, nhưng Việt Nam phải tranh thủ tối đa sự đồng thuận và hộ trợ quốc tế. Trước mắt cần giảm lệ thuộc vào Trung Quốc và tăng cường hợp tác với Mỹ và phương Tây. Tuy cải cách thể chế là yêu cầu sống còn để tháo gỡ các nút thắt về nội lực nhằm phát triển đất nước và bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhưng quá trình này đang bị các nhóm lợi ích thao túng chính sách làm trệch hướng đường ray. Đó có thể là cơ hội tốt để Trung Quốc thao túng và bắt nạt. Nhưng đến nay các nỗ lực cải cách thể chể vẫn “quá ít và quá chậm” (too little, too late).

Thứ nhất, cần xem xét tranh chấp Biển Đông trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung “vừa đánh vừa đàm” (on and off). Đến cuối năm 2019, có dấu hiệu Trung Quốc đã thấm đòn, buộc phải nhượng bộ một bước để củng cố nội bộ. Trong khi đó, chính quyền Trump cũng cần thỏa thuận một bước để đối phó với sức ép trong nước, trước năm bầu cử 2020. Vì vậy, có khả năng hai bên sẽ đạt được một thỏa thuận nào đó vào cuối năm 2019. Nhưng triển vọng hòa hoãn chỉ là tạm thời (chiến thuật), trong khi triển vọng đối đầu vẫn là lâu dài (chiến lược). Sau cuộc chiến về thương mại, có thể sẽ dẫn đến cuộc chiến về tài chính. 

Thứ hai, cần xem xét các vấn đề của Việt Nam trong bối cảnh chính trị nội bộ Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 4 (28/10-3/11/2019). Kết quả hội nghị chứng tỏ Tập cận Bình đã củng cố được quyền lực, trước những tin đồn về bất ổn trong nội bộ sau hội nghị Bắc Đới Hà. Gần đây khi đề cập đến sự tồn vong của Đảng, Tập đã nhấn mạnh từ “đấu tranh” đến 20 lần trong một bài phát biểu, thậm chí còn dùng cụm từ “thịt nát xương tan” để răn đe. Tin đồn về Trần Mẫn Nhĩ (bí thư Trung Khánh) và Hồ Xuân Hoa (phó thủ tướng) có thể được bổ xung vào Thường vụ Bộ Chính trị và Trần Mẫn Nhĩ có thể kế cận Tập Cận Bình và phụ trách Ban Kiểm tra Kỷ luật TW (thay Triệu Lạc Tế), đã không diễn ra như đồn đoán. 

Thứ ba, cần xem xét khủng hoảng Biển Đông bên cạnh khủng hoảng Tiểu vùng MeKong, cũng nguy hiểm không kém (tuy thầm lặng hơn), đe dọa cuộc sống của 20 triệu người Việt tại đồng bằng Nam Bộ. Trung Quốc xây nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn, kiểm soát dòng chảy và nguồn phù sa. Theo David Hutt, Trung Quốc có khả năng thao túng dòng chảy sông MeKong dẫn đến nguy cơ xung đột mới tại khu vực. Theo Brian Eyler (Stimson Center director) khủng hoảng sông MeKong đang tới gần. Theo Climate Central và Nature Communications (New York Times, Oct 29, 2019), đến năm 2050 gần như toàn bộ đồng bằng Nam bộ sẽ bị chìm dưới mực nước biển. Tuy dự doán này còn tranh cãi, đó là một nguy cơ lớn. 

Thứ tư, cần xem xét quy luật phát triển của Việt Nam trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường (thực phẩm, nguồn nước, không khí), vì các nhóm lợi ích thao túng chính sách và dân trí thấp. Gần đây trong dân có câu “Rạng Đông chưa qua, Sông Đà đã tới” để nói đến vụ cháy nhà máy Rạng Đông đã phát tán vào môi trường 28kg thủy ngân, và vụ đổ dầu thải làm ô nhiễm nguồn nước Sông Đà, đe dọa cuộc sống của hàng triệu người Hà Nội. Trong khi đó, các đại gia bất động sản câu kết với chính quyền thành các nhóm lợi ích, đang thao túng chính sách để làm giàu bằng mọi giá, xâm chiếm cả rừng quốc gia cần được bảo tồn, như Sun Group bị tố cáo chiếm rừng quốc gia Tam đảo để làm dự án nghỉ dưỡng.

Theo các chuyên gia quốc tế, trận động đất 6.1 ở Bắc Lào (21/11/2019 mà tâm chấn không xa đập thủy điện Xayaburi (1260 MW, 3.5 tỷ USD) là hồi chuông cảnh báo cho tham vọng làm thủy điện không chỉ của Lào mà cả Việt Nam, vì PetroVietnam đã đầu tư hàng tỷ USD vào dự án thủy điện Luang Prabang (dự kiến khởi công vào 7/2020). Trong khi đập Xayaburi là một hiểm họa vì xây gần đường đứt gãy đang hoạt động (active faults) đập Luang Prabang (1410 MW) không phải là ngoại lệ. Thượng lưu sông Mekong (Vân Nam, Bắc Lào) là vùng động đất, nên lợi ích của thủy điện trên sông Mekong là quá nhỏ so với rủi ro quá lớn đối với con người và môi trường. Lối thoát là cần đầu tư vào năng lượng tái tạo từ mặt trời và gió, thay cho thủy điện đang trở thành cơn ác mộng vỡ đập dây chuyền sẽ tạo ra cơn hồng thủy khủng khiếp của thiên niên kỷ, với sức tàn phá của những trái bom nước khổng lồ có khả năng cuốn băng đi hàng triệu sinh mạng và các thành phố tại châu thổ Tonle Sap và ĐBSCL. 

Tại Việt Nam có một nghịch lý đáng buồn là các đại gia càng giầu lên thì người dân càng ngèo đi và đất nước càng tụt hậu, do lòng tham cao nhưng dân trí thấp. Việt Nam dù có “rừng vàng biển bạc” và có một cái “mỏ người” gần 100 triệu dân, nhưng theo mô hình “tư bản hoang dã” (chứ không phải “định hướng XHCN”). Theo các chuyên gia, đó là mô hình “không chịu phát triển”. Hệ quả là nhiều người Việt phải bỏ đất nước ra đi (bằng thuyền hay bằng xe container) bất chấp rủi ro về tính mạng và tài sản (dù chỉ để làm thân phận nô lệ). Sau 74 năm dựng nước và 44 năm thống nhất đất nước, Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi ngã ba đường.

Ba không một nếu

Trung Quốc đã rút tàu khảo sát HD-8 về nước trong bối cảnh có mấy biến chuyển mới. Một là ông Trọng không đi thăm Mỹ trong năm nay. Hai là giàn khoan Hakuryu 5 (của Nhật) đã rời khỏi lô 06.01 và di chuyển về Vũng Tầu (23/10/2019). Ba là Trung Quốc muốn làm giảm căng thẳng với Mỹ trước thỏa thuận thương mại (vòng một). Ông Trọng không đi thăm Mỹ trong năm 2019 (như dự kiến) dù vì lý do sức khỏe hay vì sức ép của Trung Quốc, cũng là một thất bại. Kết quả là khả năng nâng cấp quan hệ Mỹ-Việt lên đối tác chiến lược (như dư luận mong đợi) và kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế (như dư luận đòi hỏi) vẫn còn bị treo.

Trong bối cảnh đó, có nhiều diễn biến ngày càng bất lợi cho Trung Quốc, tiếp theo khủng hoảng chính trị tại Hong Kong. Thứ nhất, một loạt tài liệu nội bộ của Trung Quốc bị dò gỉ đã tố cáo các trại tập trung cải tạo người Hồi tại Tân Cương không phải là các trung tâm đào dạy nghề như Bắc Kinh vẫn tuyên truyền. Thứ hai, một điệp viên Trung Quốc xin tị nạn chính trị tại Úc đã tố cáo Trung Quốc tìm cách tác động vào bầu cử tại Đài Loan, Hong Kong, và bắt cóc những người bất đồng chính kiến. Thứ ba, kết quả bầu cử cấp quận tại Hong Kong trong đó các ứng cử viên ủng hộ dân chủ đã thắng áp đảo là một cơn địa chấn chính trị. Thứ Tư, Hạ viện và Thượng viện Mỹ đã nhất trí thông qua dự luật “Hong Kong Human Rights and Democracy Act”, được Tổng thống Trump phê duyệt, là một lá bài quan trọng (như Đài Loan). 

Phó Tổng thống Mỹ Mike Pence có bài phát biểu cứng rắn về Trung Quốc tại Trung tâm Woodrow Wilson (24/10/2019), trong đó lên án Trung Quốc và ủng hộ Việt Nam, gắn vấn đề HongKong và Đài Loan với đàm phán thương mại Mỹ-Trung. Trong bài phát biểu, Mike Pence đã nhấn mạnh “tàu tuần duyên Trung Quốc đã dùng sức mạnh ép Việt Nam không được khoan dầu khí ngoài khơi trong vùng biển của mình”. Bộ Ngoại giao Mỹ tuyên bố (8/2019) Trung Quốc cưỡng ép không cho Việt Nam liên doanh với các công ty dầu khí không phải Trung Quốc, mà chỉ được hợp tác với các công ty nhà nước Trung Quốc.

Tuy ông Nguyễn Phú Trọng không thể đi thăm Mỹ trong năm nay, nhưng Bộ trưởng Thương mại Wilbur Ross và Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper đã đến thăm Việt Nam trong tháng 11/2019 để thúc đẩy hợp tác thương mại và quốc phòng Mỹ-Việt, trong bối cảnh Trung Quốc đang tăng cường bắt nạt Việt Nam tại Biển Đông. Trong một tuyên bố trước đó, Bộ Quốc phòng Mỹ đã lên án Trung Quốc áp đặt những đòi hỏi bất hợp pháp về chủ quyền Biển Đông và bắt nạt các nước khu vực. Đó là bối cảnh Việt Nam công bố “Sách Trắng Quốc phòng” (25/11/2019). Sau 10 năm, Việt Nam mới công bố Sách Trắng Quốc Phòng, nhằm “minh bạch hóa chính sách quốc phòng và xây dựng lòng tin đối với các quốc gia trên thế giới”.

Sách trắng Quốc phòng 2019 được định hướng là “Hòa Bình và Tự vệ”, nhấn mạnh “Hợp tác và Đấu tranh”, trong đó đề cập đến tình hình căng thẳng tại Biển Đông và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn (Mỹ và Trung Quốc). Theo các chuyên gia, Sách Trắng Quốc Phòng 2019 về cơ bản vẫn duy trì chính sách “Ba Không” nhưng được điều chỉnh thành “Bốn Không” (hay “Ba không Một nếu”), để ngỏ khả năng hợp tác chiến lược với các nước (như Mỹ) “nếu có chiến tranh”. Sách trắng Quốc phòng đã vạch ra “làn ranh đỏ” (Red line) và gửi đi thông điệp rõ ràng là Việt Nam quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích kinh tế nếu bị xâm lược. 

***

Đến cuối năm 2019, Việt Nam dường như vẫn chưa thoát khỏi Ngã Ba đường, bàn cờ quốc tế vẫn bất an và bất định với những diễn biến khó lường. Việt Nam cần tập trung vào ba mục tiêu chính: một là giảm thiểu lệ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị; hai là tăng cường hợp tác toàn diện với Mỹ (như dự án điện khí Sơn Mỹ 2, trị giá 5 tỷ USD) để giảm thiểu thâm hụt thương mại; ba là đẩy mạnh cải tổ thể chế để tháo gỡ ách tắc nhằm phát huy nội lực. Những tồn đọng của năm 2019 chắc sẽ để lại những gánh nặng cho năm 2020 khi Viêt Nam làm Chủ tịch ASEAN và thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, trước thềm Đại Hội Đảng XIII tại Việt Nam, cũng như chiến dịch tranh cử Tổng thống tại Mỹ.

Tài liệu tham khảo


1. Remarks by Vice President Mike Pence on China, Wilson Center, October 24, 2019

2. The Changing Fundamentals of US-China Relations, Evan Medairos, Washington Quarterly, Fall 2019.

3. Can Vietnam Be America’s New Ally Against China? Anders Corr, National Interest, November 7, 2019

4. 2019 Vietnam National Defense, National Political Publishing House, 2019

5. Vietnam Draws Lines in the Sea: Hanoi’s new defense white paper reflects fears of Chinese encroachment, Huong Le Thu, Foreign Policy, December 6, 2019

6. Vietnam Is Winning the US-China Trade War, Bennet Murray, Foreign Policy, Oct 30, 2018

7. A Difficult Summer in the South China Sea, Carl Thayer, Diplomat Magazine, Nov 2019

8. Geopolitical Situation: United States, China and Vietnam, Carl Thayer, Nov 15, 2019

9. US Perspectives on The South China Sea in An Era of Strategic Competition, Rebecca Strating, Australian Institute of International Affairs, November 25, 2019.

10. Xi must be dismayed: Chinese leader fighting fires on all fronts, Anna Fifield, Washington Post, November 26, 2019.

11. Last Days of the Mighty Mekong, Brian Eyler, Zed Books, 2019.

12. Water war risk rising on the Mekong, David Hutt, Asia Times, October 16, 2019

13. New Research Shows Rising Seas Will Erase More Cities by 2050, Denise Lu and Christopher Flavelle , New York Times, October 29, 2019.

14. Troubles on the Mekong: How Climate Change, Dams, and Geopolitics Threaten a River’s Future, Sam Geall, Foreign Affairs, November 7, 2019

15. Trao đổi tiếp về chuyện Biển Đông, Vũ Ngọc Hoàng, Viet-studies, 21/10/2019

16. Dân chủ hóa để bảo vệ chủ quyền, đất nước trường tồn, phỏng vấn Vũ ngọc Hoàng, RFI, 25/10/2019

17. Cần xem xét kỹ điều kiện để VN tham gia RCEP - Hiệp định đối tác toàn diện vùng mà thực chất là với Trung Quốc, Vũ Quang Việt, November 2019

18. Thủy điện Luang Prabang trên vùng động đất Bắc Lào và thảm họa vỡ đập dây chuyền, Ngô Thế Vinh, 27/11/2019. NQD. 08/12/2019

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 8-12-19

Lật tẩy âm mưu trong 15 văn kiện bí mật



Ảnh: internet

Cái nguy hiểm trong mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là họ không quan hệ với nhau cấp nhà nước mà họ quan hệ với nhau giữa 2 đảng. Trên thế giới, không có mối quan hệ giữa các quốc gia nào quái đản như mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc.
Để cho dễ hiểu thì chúng ta xem Đảng là con buôn, còn đất nước và nhân dân là hàng hóa. Thì mối quan hệ giữa ĐCS Việt Nam và ĐCS Trung Quốc là mối quan hệ giữa các con buôn với nhau về số phận của món hàng trao đổi. Từ cổ chí kim, khi các chủ buôn nô lệ trao đổi với nhau thì món hàng (nô lệ) đó không được phép biết nội dung trao đổi giữa bọn con buôn với nhau. Chỉ khi nào nô lệ được tảo tay và bị đẩy vào các nơi mà họ bị khai thác như súc vật thì nô lệ mới hiểu ra.

Còn nhớ, ngày 12 tháng 1 năm 2017 ông Nguyễn Phú Trọng lúc đó là Tổng Bí thư sang Trung Quốc gặp Tập Cận Bình ký 15 văn kiện. 15 văn kiện này chỉ được báo chí liệt kê tiêu đề chứ nhân dân không hề biết được nội dung của nó là gì. 15 tiêu đề văn kiện đó, mọi người có thể xem bài “Việt Nam - Trung Quốc ký kết 15 văn kiện hợp tác quan trọng” được đăng trên báo Dân Trí ngày 13 tháng 1 năm 2017.

Vì nội dung bí mật nên chúng ta cần phải theo dõi giữa 2 đảng họ làm gì sau khi kí. Và đến nay, sau 2 năm nhìn lại chúng ta đã thấy gì? Chúng ta đã thấy số phận đất nước đang bị chuyển giao rõ ràng. Sau đây, tôi xin trích một số văn kiện điển hình trong 15 văn kiện bí mật đó để chứng minh rằng, lộ trình bán nước là rất rõ ràng.

Đầu tiên là cái thỏa thuận thứ nhất trong 15 văn kiện là hợp tác đào tạo cán bộ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nói về vấn đề ĐCS Việt Nam cử cán bộ sang Trung Quốc học tập thì chúng ta không cần phải liệt kê, ta chỉ cần đánh từ khóa “cử cán bộ sang Trung Quốc học tập” thì sẽ có ngay 15 triệu kết quả, tha hồ mà xem.

Vậy câu hỏi đặt ra là, những cán bộ sang Trung Quốc học tập rất nhiều như thế, trong khi quan chức nào cũng tham quyền cố vị thì làm sao đủ chỗ trống mà bố trí cho những đứa con cưng được cho đi học từ Trung Quốc trở về? Câu trả lời là chính chiến dịch “đốt lò” của ông Nguyễn Phú Trọng đã tạo ra chỗ trống. Về mặt mị dân thì “đốt lò” là chống tiêu cực, nhưng về âm mưu sâu xa thì đó chính là diệt phe cánh đối địch để tạo chỗ trống cho những người tập huấn từ Trung Quốc trám vào nhằm tạo một bộ máy theo Tàu thuần nhất.

Thỏa thuận thứ 3 trong 15 văn kiện mật chính là công thư trao đổi về việc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng. Như ta biết, hiện nay Việt Nam đang xúc tiến xây dựng tuyến đường này. Điều đáng nói là tuyến đường sắt này nằm trong dự án “hai con đường, một vành đai”. Mà chúng ta biết, dựa án “hai con đường, một vành đai” và 3 dự án đặc khu chính là một dự án trong trong đại dự án “một vành đai, một con đường” do Tập Cận Bình đưa ra.

Theo báo chí CS cho biết, để xây tuyến đường sắt này, CS Việt Nam sẽ phải vay Trung Quốc 100.000 tỷ đồng tương đương 4,34 tỷ đô la. Nói toạc móng heo ra là ĐCS Việt Nam vay Trung Quốc 4,34 tỷ đô để làm đường sắt cho Trung Quốc dùng. Nếu đây không phải hành động bán rẻ đất nước này thì là hành động gì? Rõ ràng ĐCS Việt Nam đã đem đất nước này phục vụ cho Trung Quốc.

Thỏa thuận thứ tư trong 15 văn kiện bí mật này là một thỏa thuận về quân sự. Đó là tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Bộ Quốc phòng Trung Quốc đến năm 2025. Điều mà chúng ta thấy là lực lượng vũ trang của Trung Quốc luôn lấn tới nhưng quân đội của CS Việt Nam chỉ có im lặng nhường.

Chính sách 3 không mà ĐCS Việt Nam đã theo đuổi trước đây nhìn có vẻ như là chính sách của ĐCS Việt Nam, nhưng nếu phân tích kỹ thì không phải vậy. Vì sao? Vì không ai ngu xuẩn đến mức ra chính sách tự trói thân mình cả. “Chính sách 3 không” chính là 3 sợi dây đã trói ĐCS Việt Nam trở nên bất động trước ĐCS Trung Quốc.

Cho nên từ đó, ta có thể khẳng định “chính sách 3 không” là chính sách do ĐCS Trung Quốc đề ra và buộc ĐCS Việt Nam phải thi hành mà thôi. Nói đúng hơn ĐCS Trung Quốc quẳng 3 sợi dây thừng bảo ĐCS Việt Nam rằng “Đây! Mi hãy tự trói cho ta xem”, và vì hèn nhát, ĐCS Việt Nam đã răm rắp nghe theo. Khi đã trói ĐCS Việt Nam thật chặt bằng 3 sợi dây, thì hôm nay ĐCS Trung Quốc lại quẳng thêm sợi dây thừng nữa và bảo “3 sợi còn lỏng lẻo lắm. Đây! Tao đưa thêm một sợi nữa, mi tự trói thêm vào cho ta xem!”. Và thế là chính sách 3 không trước đây giờ trở thành chính sách 4 không: “Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”.

Thỏa thuận thứ 9 trong 15 văn kiện bí mật kia chính là kế hoạch hợp tác Du lịch Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2017-2019. Nói là “hợp tác du lịch”, nhưng qua quan sát ta thấy ẩn đằng sau đó một âm mưu dọn đường cho người Trung Quốc tràn vào Việt Nam. Cụ thể là chiều ngày 25 tháng 11 năm 2019, Quốc Hội CS Việt Nam đã bỏ phiếu thông qua luật cho phép “người nước ngoài” được miễn visa ở các “khu kinh tế ven biển có sân bay quốc tế”. Rõ ràng đây là cách nói tránh, thực chất là chấp nhận cho người Trung Quốc tự do đến các đặc khu kinh tế mà thôi.

Ba đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc có là 3 vị trí trọng yếu có ý nghĩa chiến lược về mặt quân sự. Điều đáng nói là ĐCS Việt Nam đã chọn đúng 3 vị trí nằm ngay huyệt đạo hiểm trên cơ thể dải đất hình chữ S để giao Tàu. Nếu bạn có tử huyệt, bạn có giao nó cho kẻ thù nắm không? Chắc chắn là không.

Để chọn được đúng 3 huyệt đạo này thì ĐCS Việt Nam phải cử người sang Trung Quốc “học hỏi” (từ “học hỏi” trong trường hợp này mang ý nghĩa là một hình thức nhận chỉ thị trá hình) để về Việt Nam áp dụng. Không có một nhà nước của dân nào mà tự dâng tử huyệt của đất nước mình cho kẻ thù ngàn năm nắm giữ, ngoại trừ chính quyền đó đã âm thầm bán đứng giang sơn cho ngoại bang.
Thỏa thuận cuối cùng mà tôi muốn nói đó là thỏa thuận thứ 13. Đó chính là bản ghi nhớ về việc hợp tác làm phim truyền hình chuyên đề “Sức lôi cuốn của Việt Nam - sức lôi cuốn của Trung Quốc” giữa Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc. Và ngay sau đó, năm 2018 phim Điệp Vụ Biển Đỏ có cảnh tàu tuần tra hải quân Trung Quốc ở biển Nam Hải (cách Bắc Kinh gọi Biển Đông) trục xuất tàu lạ nước ngoài khỏi vùng biển xung quanh “quần đảo Nam Sa” mà Việt Nam gọi là Trường Sa.

Chưa hết, đến năm 2019 thì cơ quan kiểm duyệt cho phim hoạt hình “Everest - Người tuyết bé nhỏ” trong đó có hình ảnh Đường lưỡi bò đã được ra rạp. Khi chúng ta xem lại tiêu đề văn kiện thứ 13 trong 15 văn kiện bí mật kia chúng ta mới giật mình, thì ra những bộ phim lọt qua kiểm duyệt không phải là sai lầm mà là sự thỏa thuận giữa 2 đảng đã được 2 người đứng đầu của 2 ĐCS đã ký với nhau rồi. Đó hoàn toàn không phải nhầm lẫn.

Đó chỉ mới 5 văn kiện trong 15 văn kiện bí mật mà Nguyễn Phú Trọng đã ký với Tập Cận Bình cách đây hơn 2 năm. Còn 10 văn kiện bí mật còn lại chúng ta cũng dễ dàng nhìn thấy nó được ĐCS Việt Nam thực hiện ráo riết. Với CS, để đánh giá âm mưu của họ, chúng ta không thể tách một sự kiện đơn lẻ mà phải xâu chuỗi lại. Khi ta xâu chuỗi lại để theo dõi lộ trình ĐCS Việt Nam đang thực hiện thì dù cho nội dung có bí mật cỡ nào chúng.

Không có sự nhầm lẫn hay sai lầm nào cả, mà tất cả là những lộ trình bán nước được che đậy khéo léo bằng đủ thứ hỏa mù mà thôi. Chỉ có thức tỉnh mới giải quyết, còn nếu vô cảm thì hết cách.

Đ.N.

Nguồn: FB Đỗ Ngà