Thứ Hai, 22 tháng 2, 2021

Chủ thể văn hóa - GS Lê Hữu Khóa

Tylor đề nghị một định nghĩa về văn hóa, mà các sách giáo khoa của khoa học xã hội và nhân văn thường sử dụng để mào đầu cho các đối thoại hoặc tòa đàm: «Văn hóa là một đồ hình được sự xếp đặt qua phong tục, tập quán, truyền thống… như một hệ thống giá trị có nội lực tổ chức các hành động có điều kiện đã trở thành thói quen qua các phản ứng và phản xạ của các thành viên cùng có một niềm tin vào hệ thống giá trị này». Định nghĩa này đi từ định đề của hệ thống giá trị dựa trên phong tục, tập quán, truyền thống để tìm tới một định luận là khi các giá trị được công nhận thì các thành viên của một cộng đồng sẽ sinh hoạt văn hóa vừa bằng ý thức về các giá trị này, mà cũng vừa bằng tiềm thức của phản xạ được lập đi lập lại trong không gian và thời gian của một văn hóa. Đây là loại định nghĩa đi tìm tổng quát để có tổng kết đầy đủ, nhưng chúng ta sẽ có thể có một định nghĩa trọn vẹn về văn hóa chỉ vì phạm trù văn hóa là một phạm trù mở, nơi mà lãnh thổ và biên giới của văn hóa không hề được định hình trong một không gian vĩnh cửu với thời gian vĩnh hằng. Riêng trong tọa đàm này của Hội Minh Triết Việt, tôi đề nghị nghiên cứu văn hóa qua: chủ thể văn hóa, cụ thể là có các thành viên hưởng thụ, hưởng lợi, thậm chí vụ lợi rồi trục lợi qua văn hóa như chúng ta đang thấy các dịch vụ thương mại chung quanh các địa điểm, các lễ hội, các sinh hoạt mang nội chất văn hóa. Nhưng chỉ có các chủ thể văn hóa mới bảo vệ, bảo hành, bảo hiểm được các giá trị chính thống của văn hóa.

 

Từ định vị chủ thể tới sự vận hành của chủ thể văn hóa

Chủ thể có những định luận khác nhau trong khoa học xã hội và nhân văn, nhưng cuối cùng là các định luận này sẽ cùng nhau hội tụ chung một chân trời. Nơi mà cá thể khi trở thành chủ thể, thì cá nhân lẻ loi sẽ là công dân sinh hoạt trong nhân tri sáng tạo ra chính nhân kiếp cho mình, vì mình. Chủ thể văn hóa có không gian tri thức của mình, chúng ta có ít nhất ba quan niệm chuyên ngành về chủ thể đã biết chung lưng đấu cật để làm nên phạm trù phân tích và giải thích sự định hình của chủ thể. Triết học quan niệm chủ thể chính là các tác nhân biết tìm để hiểu sự thật trong quá trình làm người của mình. Từ đó, xem rồi xét phạm trù tự do mà mình muốn có, để thấy rồi thấu nhân lộ của chủ thể luôn đi xa hơn cá thể, luôn đi rộng hơn cá nhân, luôn đi cao hơn công dân, để tự quyết không gian nhân kiếp của chính chủ thể. Sử học quan niệm chủ thể bắt đầu bằng sự dấn thân chống bất bình đẳng, rồi chống bất công vì những giá trị của công bằng và bác ái bằng những nhân lộ khác nhau. Từ cải tổ tới cải cách, từ cải cách tới cách mạng, chủ thể đi tìm công ích để chống tư lợi, đi tìm công luận để gạt đi vụ lợi. Nên chủ thể xây gốc, đắp rễ, dựng cội, tạo nguồn từ nhân tính vô vụ lợi, khác hẳn với tính vị kỷ của cá nhân, khác xa với tính ích kỷ của cá thể. Xã hội học quan niệm chủ thể bằng đạo lý của trách nhiệm trước xã hội, của bổn phận trước cộng đồng, bằng chính nhận thức về lợi ích tập thể.

Tại đây, chủ thể luôn đứng về phía sáng tạo: công bằng rồi thì phải công bằng hơn, bác ái rồi thì phải bác ái hơn, nên đã tự do rồi thì phải tự do cao hơn, sâu hơn, rộng hơn, xa hơn. Sáng tạo ngay trong sinh hoạt xã hội bằng sáng kiến làm tốt sinh hoạt xã hội, sáng tác ngay trong quan hệ xã hội bằng sáng lập ra các quan hệ xã hội mới, biết làm đẹp hơn cho đời sống xã hội đang có. Chủ thể văn hóa vận hành trong không gian của hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo, sáng tác, sáng lập) này không ngừng ở các hình thái nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn chương… Mà hệ sáng là động lực thường xuyên và động cơ thường nhật để chủ thể tạo ra hệ hành (hành vi, hành động, hành tác) dựa trên hệ tự (tự do, tự chủ, tự lập). Lại được trợ lực bởi hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái), vì được trợ duyên bởi hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ). Tất cả các hệ này làm nên: nội công đạo lý, bản lĩnh đạo đức, tầm vóc luân lý của chủ thể. Đây chính là nguồn cơn mất ăn mất ngủ của bạo quyền độc đảng toàn trị, tà quyền tham nhũng trị, quỷ quyền ngu dân trị, ma quyền công an trị, âm quyền tuyên truyền trị… Đó chính là các hoạn nạn mà Việt tộc đang phải gánh chịu dưới sự cai trị của ĐCSVN, tới từ một sự cai trị vừa diệt sự phát triển của đất nước, vừa triệt sự tiến bộ của dân tộc, vừa giết văn minh vì giống nòi, cùng lúc thanh trừng luôn tiền đồ tổ tiên Việt đã làm nên văn hóa Việt.

Trong đầu thế kỷ này, Hội Minh Triết Việt có vài lần mời triết gia François Jullien và tôi tới Hà Nội, để tham dự các diễn đàn gần xa có liên quan tới văn hóa, tư tưởng và triết học. Bạn tôi François Jullien, có đề nghị phân tích: «Văn hóa thì mở nhưng bản sắc thì đóng, nên khi một chính quyền, một chính phủ khơi mào chuyện bản sắc văn hóa, thì đây là trò bịp, đây là mưu đểu, mà mọi người phải cẩn trọng, không để bị giật dây bởi các chính sách lấy bản sắc đóng để đóng khung rồi nhốt tù văn hóa mở. Bản sắc như loại chứng minh nhân dân, có lý lịch của một thẻ căn cước với các dữ kiện bất di bất dịch như tên, họ, giới tính… Mà văn hóa thì ngược lại, văn hóa phải mở để tiếp đón tiến bộ cho xã hội, phát triển cho cộng đồng và văn minh cho dân tộc».

Riêng tôi, thì tìm cách đi thêm một bước nữa về phía chủ thể văn hóa bằng định luận: «Văn hóa thì động mà bản sắc thì đọng ; văn hóa động, vừa giúp chúng ta thích ứng với ngoại giới nơi mà tha nhân có thông minh để sáng tạo, vừa giúp chúng ta thích nghi với các tiến bộ xã hội, thích ứng với các phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ... Động để chủ động! Để có lối sống mới nơi mà ngoại giới có tha nhân, có nhân loại sẽ trợ lực để chúng ta thăng hoa từ tâm lực tới trí lực, từ nhân tri tới nhân trí. Ngược lại bản sắc đọng, từ sắc tộc tới giới tính làm nên nhân diện bị động trong nhân dạng thụ động, bắt chúng ta phải sống hoài với nhân tri hạn hẹp, nhân trí giới hạn, trong loại nhà tù vô hình của «ao làng», làm nên nhà giam của loại người luôn tự vỗ ngực kiểu «ta về ta tắm ao ta». Bản sắc đọng vì đọng trong vòng tự lao lý hóa nhân kiếp của mình, không thấy «nắng sớm mưa chiều» của nhân thế, nên không thấu «vật đổi sao dời» của nhân gian».

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể giáo lý

Mauss, một trong những sư tổ của nhân học, đứa con tin yêu của điền dã dân tộc học, yêu cầu chúng ta dành cho văn hóa một không gian rộng nhất trong sinh hoạt xã hội, với định nghĩa: «Văn hoá luôn có hành tác rộng và sâu từ quy luật trao đổi tới quy lệ cưới hỏi, từ quan hệ xã hội tới tổ chức kinh tế, văn hóa mang tính lớp lang; trong cuộc sống biết sự chia sẻ trong cộng đồng, chính sự chia sẻ làm nên tính liên kết trong quan hệ xã hội». Trong định nghĩa của Maus có định đề của trao đổi, của cưới hỏi, có định luận từ xã hội tới kinh tế, như vậy văn hóa chi phối rất nhiều sinh hoạt của nhân gian.

Sau đó, Lévi-Strauss còn đi xa hơn thầy của mình, khi đại sư của nhân học cận đại đề nghị một định nghĩa về văn hóa có chiều rộng của ngôn ngữ, chiều cao của tư tưởng, có chiều sâu của ý thức: «Văn hoá luôn nói lên một quần thể sinh hoạt ưu tiên của một cộng đồng, trong đó ngôn ngữ, tư tưởng biết tạo nên ý thức của thành viên trong cộng đồng đó. Văn hoá có tôn ti trật tự của tổ chức xã hội cho cộng đồng đó, mà cũng là vốn liếng làm nên cảm xúc cho các thành viên trước các giá trị được tôn vinh trong văn hóa đó». Trên định nghĩa này, các chuyên gia về văn hóa sẽ nhận ra vai trò của giáo dục biết bảo vệ ngôn ngữ, bảo đảm tư tưởng, bảo hành ý thức của một cộng đồng. Nơi mà tình cảm tập thể có trong sự xúc động của các thành viên trước sự thể hiện các giá trị trong văn hóa đó, giờ đã trở thành niềm tin chung cho cộng đồng này. Vai trò của giáo dục trong sự sống còn của một văn hóa được trợ lực bằng giáo lý của tổ tiên, giáo khoa của học đường, với giáo trình qua các thế hệ, với giáo án trong từng thế hệ, nên giáo dục văn hóa luôn là gốc, rễ, cội, nguồn của mọi sự thăng hoa của một dân tộc.

Không ai sinh ra đã là chủ thể, mà chủ thể được ra đời với ít nhất trong năm môi trường giáo dục chủ yếu biết đào tạo những công dân tốt biết đấu tranh để bảo vệ một xã hội tốt, được bảo quản bởi một định chế tốt, được bảo trì bởi một cơ chế tốt, được bảo hành từ một chế độ tốt. Có ít nhất năm môi trường giáo dục để xây dựng các chủ thể văn hóa. Giáo dục đạo lý, từ gia đình tới học đường, từ nghề nghiệp tới xã hội, công dân xác nhận chức năng vì công ích của mình trong tập thể, cộng đồng. Cùng lúc xác chứng được vai trò tích cực của mình qua trách nhiệm với đất nước, qua bổn phận với dân tộc, nghĩa vụ với giống nòi. Giáo dục học đường, nơi mà hệ thức (kiến thức, tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) giúp công dân sử dụng phương trình sự thật-chân lý-lẽ phải để tạo dựng nhân sinh quan cho chính mình, một nhân sinh quan biết sống cùng, sống chung trong môi trường văn hóa với dân tộc.

Từ phát triển đất nước tới tiến bộ xã hội để làm nên văn minh cho dân tộc, giáo dục khoa học là quá trình tự chủ biết khách quan hóa các kiến thức để có phân tích trúng, giải thích đúng. Nơi mà chủ thể tiếp nhận kiến thức của khoa học, kỹ thuật như tiếp đón các vốn liếng cùng các kỹ năng để tạo tiền đề cho phát triển vì đất nước, tiến bộ vì dân tộc, văn minh vì giống nòi. Chủ thể văn hóa biết mở cửa để đón giáo dục dân chủ, đây là nhân lộ thiết yếu để nhận ra đa nguyên là cốt lõi của hệ đa (đa tài, đa dung, đa tri, đa trí, đa hiệu, đa năng) biết dựa trên sự thông minh của tập thể, của cộng đồng. Sự thông minh này luôn đa diện, đa chiều, và vượt trội sự thông minh của cá thể trong ích kỷ, của cá nhân trong vị kỷ.

Chủ thể văn hóa biết mở cửa mà còn biết giữ cửa để bảo vệ giáo dục nhân quyền, nơi mà công bằng giữa các thành viên trong xã hội được xác nhận bởi hiến pháp, mà công lý là gốc, rễ, cội, nguồn cho mọi công luật. Nên chủ thể văn hóa còn biết mở lòng để tiếp nhận phương trình công bằng-công lý-công luật trực tiếp chống lại mọi bất công của độc đảng-độc quyền-độc tài, lấy đặc quyền để đặc tham, đặc lợi để vụ lợi, chóng chày sẽ bội ân với dân tộc, với giống nòi, với đất nước, cụ thể là bội phản với văn hóa của tổ tiên. Chủ thể văn hóa là tổng lực của năm hệ giáo dục này, cụ thể là sẽ không có dân chủ trong văn hóa, sẽ không có nhân quyền cho văn hóa nếu không có các hành tác tới từ chủ thể văn hóa. Vì chỉ có chủ thể văn hóa mới biết bảo vệ các giá trị đạo đức dân tộc, đạo lý đồng bào, luân lý giống nòi, làm nên tổng lực của các giá trị tâm linh của Việt tộc.

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể tri thức

Morin, khi vào sâu xã hội hội kiến thức và xã hội học khoa học đã phân tích được sự hiện diện của văn hóa trong mọi lĩnh vực của tri thức nhân sinh, thầy đã định nghĩa: “Văn hoá mang một nội lực có tính tổ chức biết biến kinh nghiệm thành kiến thức, rồi đưa kiến thức vào quỹ đạo của đạo lý để kiến thức trở thành ý thức. Nên văn hoá vừa có mặt trong hạ tầng kiến trúc ở mọi sinh hoạt xã hội, ngay trong đời sống xã hội, quan hệ xã hội. Cùng lúc văn hoá hiện diện ngay trong thượng tầng kiến trúc từ chính quyền tới chính phủ, từ đạo lý tới luân lý, từ giáo dục tới tư tưởng. Như vậy, văn hoá vừa xuyên tầng, qua lại giữa hạ tầng kiến trúc và thượng tầng kiến trúc; văn hoá lại vừa siêu tầng lúc ẩn lúc hiện, là hằng số trong tổ chức của tập thể, của cộng đồng, của sắc tộc…”.

Định nghĩa này đã đặt định đề văn hoá trong mọi lĩnh vực của nhân sinh, đưa tới định luận theo chiều dọc của nhân gian nơi mà văn hóa tự sinh rồi tự tồn từ quan hệ thường nhật của con người tới đời sống tâm linh. Nhưng thầy còn tìm cách đi xa hơn nữa để phân tích rồi giải thích sự phân hóa ngay trong văn hóa, khi con người đã bước sâu vào thực chất của xã hội tiêu thụ cuối trong thế kỷ XX qua và đang đi sâu vào xã hội truyền thông trực tuyến toàn cầu hóa thế kỷ XXI này. Thầy đề nghị phân loại có ba văn hóa đang sống chung trong không gian của nhân sinh, lúc thì hợp tác với nhau, lúc thì xung đột nhau:

·       Văn hoá nhân phẩm là văn hóa thứ nhất mang nội chất hàn lâm, mang nội lực giáo dục, mang sung lực giáo lý, luôn lấy chân, thiện, mỹ làm giáo khoa để lập giáo trình, để xây giáo án, có mặt trong toàn bộ hệ thống giáo dục. Nhưng chính văn hoá nhân phẩm này dang bị thu hẹp, bị đẩy lùi với sự xuất hiện của văn hóa thứ hai.

·       Văn hóa tiêu thụ là văn hoá thứ hai, mang bề ngoài đại chúng, mà nội chất được chế tác từ sức mua chính là sức tiêu thụ, tiêu thụ dễ dàng làm nên tiêu sài dễ dãi, tiêu thụ nhanh chóng làm nên tiêu sài như phản xạ, nơi mà giáo lý lấy chân, thiện, mỹ không còn là ưu tiên cho nhân phẩm biết làm nền cho nhân bản.

·       Văn hoá khoa học là văn hoá thứ ba, nơi mà khám phá khoa học tác dụng ngay vào đời sống xã hội, nơi mà ứng dụng khoa học làm ra tiến bộ kỹ thuật, phát triển công nghệ, liên tục tạo nền tảng mới cho văn minh của nhân loại, ngày ngày làm thay đổi định lượng trong sản xuất, định chất trong hiệu quả ngay trong sinh hoạt văn hóa, đời sống văn hóa. Chính văn hóa khoa học đang điều kiện hóa về mọi mặt văn hóa nhân phẩm, văn hóa tiêu thụ, vừa qua văn hóa phẩm, vừa qua mạng xã hội.

Nhưng trước Morin gần một thế kỷ, thì một trong những sư tổ của xã hội học và kinh tế học là Weber đã luận bàn về văn hóa khoa học, và khuyên răn chúng ta hãy rất thận trọng từ tổ chức khoa học tới sinh hoạt khoa học. Tại đây, có những kẻ thất bại trong nghiên cứu khoa học đã tìm mọi cách từ quan hệ cá nhân tới quan hệ công đoàn, từ đảng phái tới bè nhóm để nắm quyền lực hành chính, để có con dấu và chữ ký trong quyết định về các ngân sách nghiên cứu khoa học. Nơi mà sự bất tài của lãnh đạo khoa học quyết định số phận nghiên cứu khoa học, rồi số kiếp khám phá khoa học của các nhà nghiên cứu thực tài.

Đây là một bi kịch của khoa học, đã trở thành thảm kịch của sinh hoạt khoa học tại Việt Nam hiện nay, nơi mà bạo quyền độc đảng toàn trị luôn độc tài nhưng lại bất tài trong quản lý khoa học, kinh tế, xã hội, và nhất là vô văn hóa trên các định đề căn bản làm nên nguồn cội của văn hóa Việt. Chính bạo quyền độc đảng toàn trị luôn độc trị nhưng không hề biết quản trị từ văn hóa tới giáo dục, từ khoa học tới kinh tế đã biến Việt tộc vừa là một minh tộc có độc lập tư tưởng về văn hóa, vừa là một dũng tộc có tự chủ tư duy để bảo vệ văn hóa của mình ; nhưng giờ đây đã trở thành một sắc tộc đi làm thuê, một dân tộc đi ở đợ cho các quốc gia láng giềng. Một bạo quyền độc đảng toàn trị luôn độc tôn nhưng không tôn trọng tôn ti nhâm phẩm của tổ tiên Việt, đã lạm dụng xuất khẩu lao động để tạo một văn hóa quái thai qua xuất khẩu lao động. Trai thì lao nô, gái thì nô tỳ, một loại văn hóa với số phận ăn nhờ ở đậu, đây là loại văn hóa suốt kiếp làm công, không biết tự làm chủ, đây là loại văn hóa của nhân kiếp tôi đòi! Việt tộc có toàn quyền không chấp nhận loại văn hóa này !

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể đa diện

Camilleri, khi vận dụng phương pháp luận tâm lý học để lập nên các định luận cho giáo dục học thì ông đã thấy vai trò vừa chủ động, vừa thụ động của văn hóa:“Nếu gọi sự xếp đặt các truyền thống, các kinh nghiệm làm nên sự hiểu biết từ truyền thống tới phong tục là văn hoá, thì đây là sự xếp đặt bằng các thói quen. Mà các thói quen này được lập đi lập lại từ quá khứ tới hiện tại, lại được hoặc bị lập đi lập lại nữa trong tương lai, thì bản thân văn hóa này sinh ra tính tuân lệ thụ động, cụ thể là ngủ quên trên thói quen, mà không cần cải tổ, cải cách bằng các sáng tạo mới”. Những loại văn hóa thụ động đóng cửa rồi ngủ vùi trên thói quen luôn bị đe dọa bới các loại văn hóa luôn chủ động đi tìm văn minh mới để củng cố văn hiến cổ của chính mình và vì mình.

Ricœur, vừa là một ngân hà lạ của hiện tượng học, lại vừa đã là trường sơn của triết đạo đức, thầy đã nhận ra thói quen ngủ quên trong sinh hoạt văn hóa, nơi mà tính thủ cựu đã tạo ra các thành viên bị hủ hóa ngay trong chính văn hóa của mình. Nên thầy đã định nghĩa văn hóa ngay trên tính chủ động mở về sự sống còn của chính văn hóa đó: “Văn hoá muốn tồn tại luôn phải là một văn hóa mở, động từ mở này chính là sự thông minh của các chủ thể văn hóa ngay trong sinh hoạt văn hóa: cởi mở để rộng mở rồi thông mở! Mở để ra ngoài, mở để gặp bên ngoài, và mở để thấy rồi tiếp, đón rồi nhận bên ngoài, cụ thể là để tăng nội lực, để nâng nội công cho chính văn hóa của mình. Mở để tiếp thu rồi tiếp nhận hùng lực bên ngoài để làm mạnh rễ, vững gốc, chắc cội, bền nguồn cho chính mình; vì bên ngoài văn hóa của chúng ta đã có sự thông minh của cả nhân loại, biết trợ lực cho văn hoá bên trong của chúng ta”.

Từ đây, ta hãy phân tích thật cụ thể chức năng của chủ thể văn hóa của mỗi công dân Việt hiện nay là gì? Hãy giải thích thật rành mạch vai trò của chủ thể của mỗi công dân Việt hiện nay là gì? Để trả lời thật minh bạch câu hỏi : chủ thể hóa công dân là gì? Câu trả lời sẽ là động cơ làm nên hành động của chủ thể trước thảm trạng của xã hội Việt hiện nay, chính là thảm họa của dân tộc Việt mai sau, và sẻ là thảm nạn của giống nòi Việt trong trong nhiều thế hệ. Và câu trả lời là bây giờ và ngay trên đất nước Việt, chủ thể văn hóa Việt phải xây dựng được một tổng lực mới tới từ:

·       Hệ công (công bằng, công lý, công luật)

·       Hệ đa (đa tài, đa trí, đa năng, đa hiệu)

·       Hệ lương (lương thiện, lương tâm, lương tri)

·       Hệ liêm (liêm khiết, liêm chính, liêm sỉ)

·       Hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức)

·       Hệ tự (tự do, tự chủ, tự tin, tự lập)

·       Hệ sáng (sáng kiến, sáng tạo, sáng chế, sáng lập)

·       Hệ thông (thông minh, thông thạo, thông thái).

Tận dụng tổng lực này mà chế tác ra hệ đối (đối lý, đối luận, đối thoại, đối lực, đối trọng, đối kháng), vừa để nhận ra bản lai diện mục, vừa để vạch mặt chỉ tên các hệ độc (độc đảng, độc quyền, độc tôn, độc tài, độc trị) độc đảng giết nhân quyền để diệt dân chủ; độc quyền để lạm quyền rồi cuồng quyền; độc tôn để triệt mọi tôn ti trật tự ngay trong cơ đồ của tổ tiên Việt; độc tài nhưng bất tài trước quá trình phát triển đất nước; độc trị nhưng không biết quản trị vì tiến bộ dân tộc, vì văn minh cho giống nòi. chủ thể văn hóa Việt cùng lúc phải xem để xét hệ tham (tham quyền, tham quan, tham ô, tham nhũng, tham tiền), nơi mà độc đảng là có độc quyền vơ vét tiền bạc của dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước; nơi mà độc đảng là độc quyền để mua bằng bán chức, rồi mua chức bán quyền, và sẽ không ngần ngại sa vào quỷ lộ buôn dân bán nước. Hệ gian (gian dối, gian trá, gian manh) của một hệ thống bạo quyền độc đảng toàn trị, mà tất cả từ khẩu lệnh tuyên truyền tới chính sách đều dựa vào sự ăn gian nói dối của ĐCSVN, với phản xạ sở khanh thường xuyên là nói lời rồi lại nuốt lời như chơi.

Chủ thể văn hóa Việt phải thấy cho thấu hệ bạo (bạo lực, bạo động, bạo hành) làm nên bạo sách xem dân là các lực lương thù địch, làm nên bạo quyền bằng công an trị, với bạo tâm sẵn sàng giết dân, từ Cải cách ruộng đất tới việc đẩy cả dân tộc vào cuộc bạo chiến qua nội chiến huynh đệ tương tàn trong thế kỷ XX qua. Tại đây, Chủ thể văn hóa Việt phải tra cho khảo hệ đặc (đặc quyền, đặc lợi, đặc ân) nơi mà đặc quyền đã thành phản xạ cho lạm quyền, đã thành phản ứng cho cực quyền, để tham quyền sinh đôi với cuồng quyền. Nơi đây đặc lợi đã thành phản xạ vụ lợi bè đảng trực tiếp phục vụ cho tư lợi cá nhân, nơi mà sự ích kỷ với lòng tham không đáy, bất chấp những hậu quả cho đất nước, hậu nạn cho giống nòi; chỉ để nuôi đặc ân là ăn trên ngồi trốc trên đầu, trên cổ cả một dân tộc. Tất cả đã tạo ra hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm) tất cả tới từ vô học từ giáo lý tới kiến thức của các lãnh đạo ĐCSVN. Tại đây, hãy thấy cho thấu biến nạn của vô văn hóavô năng từ lý luận tới lập luận trong cách chính sách, vô hiệu từ giải luận tới diễn luận trong cách quốc sách đang làm nên bao thảm nạn, mà một điều đáng sợ nhất cho văn hóa Việt đang bị vô hậu hóa!

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể đấu tranh

Elias, người thầy thật đáng kính của xã hội học cận đại, đã phân tích văn hóa với tất cả chiều sâu tình cảm, nơi mà chính ông đã là nạn nhân trực tiếp của thảm họa diệt chủng của Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến của thế kỷ qua: “Hãy định nghĩa văn hóa bằng quan hệ giữa người với người, nơi mà các phạm trù của nhân tính không phải là phạm trù của sinh học, nơi mà đặc tính sinh học không có vai trò gì trong sự hình thành một văn hóa, nơi mà bản năng của cá nhân sẽ được ngự trị bằng giáo dục của cộng đồng. Xa hơn nữa văn hoá có khả năng biến quan hệ chóng chày thành quan hệ dài lâu, vì văn hoá là tổng lực của sự xúc cảm biết liên kết giữa cái lý, cái lợi, cái muốn ngay trong cái lệ. Văn hoá là nơi tạo được quan hệ tình cảm để giải quyết nhu cầu tình cảm của nhân sinh, văn hoá có nội dung của quan hệ tình cảm để giải quyết các kích thích của xúc cảm. Văn hoá ở ngay trong trung tâm các quan hệ xã hội, qua văn hoá thì quan hệ tình cảm trong sinh hoạt xã hội sẽ là những quan hệ bền vững”.

Elias đã đặt định đề của văn hóa ngay trên thượng nguồn không phải là phạm trù của sinh học, và khẳng định sinh học không có vai trò gì trong sự hình thành một văn hóa. Từ đó đi tới định đề về hùng lực của văn hóa là chế ngự được loại bản năng đói ăn khát uống, ăn tươi nuốt sống, chính văn hóa đã chuyển hóa những phản xạ của thú tính thành phản ứng có nhân tính. Xa hơn nữa, ông đã đặt quan hệ văn hóa là loại quan hệ dài lâu, vì trong quan hệ này đã có sức mạnh của xúc cảm tạo nên liên hợp giữa cái lý, cái lợi, cái muốn trong cái lệ. Nơi mà quan hệ văn hóa trước hết là quan hệ tình cảm giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng, sắc tộc, quốc gia…

Goffman, người thầy tài hoa của xã hội học vi mô, luôn phân tích các nội dung của sự giao kết giữa các cá nhân để giải thích mọi sự vận hành trong quan hệ xã hội: “Văn hóa tạo ra không gian xã hội bằng ý định con người, trong đó các ý muốn con người sẽ chi phối trên luật nhân quả. Nếu có nhân và có quả trong mọi hành động xã hội, thì chúng ta phải biết là có văn hoá bảo vệ môi trường, mà cũng có văn hoá phá hoại môi trường. Nên sự thông minh của con người nằm ngay trong sự thích ứng với thiên nhiên, với môi trường, với môi sinh trong một tổ chức xã hội phức tạp. Văn hóa có trước luật pháp ngay trong phương cách thu lợi của con người, vì con người này biết tôn trọng lệ, luật, quy ước… tới từ văn hóa”. Khi đặt định đề từ đầu là có văn hoá bảo vệ môi trường, mà cũng có văn hoá tàn phá môi trường, để đi tới định luận là con người biết tìm ra sự thích ứng với thiên nhiên, với môi trường, với môi sinh trong một tổ chức xã hội phức tạp, từ đó đi tới định nghĩa văn hóa là sự thông minh của con người biết đặt tư lợi của mình trong công ích của tập thể, của cộng đồng. Tại đây, Goffman đã giúp công dân Việt chúng ta nhìn lại thảm trạng của thiên nhiên, môi trường, môi sinh, ngay trên đất nước Việt.

Và khi công dân Việt này muốn trở thành chủ thể Việt để quyết định nhân sinh, nhân thế, nhân gian, cụ thể là nhân kiếp của mình, thì chủ thể Việt phải thấy-cho-thấu lối thoát cùng lối ra làm nên lối thắng cho Việt tộc chính là quá trình chủ thể hóa công dân. Bằng sáng kiến và hành động từ cá nhân tới tập thể, từ cộng đồng tới quần chúng, bằng phong trào, bằng thông tin, bằng truyền thông, với cường độ của tri thức, với mật độ của kiến thức, với trình độ của nhận thức để chống lại công an trị. Chủ thể trực diện để chống lại công an giết dân trong các đồn công an, chủ thể trực tiếp chống lại công an tra tấn bằng nhục hình man rợ nhất giữa thế giới đã biết văn minh dân chủ, đã hiểu văn hiến nhân quyền. Công an trị là một chế độ với cơ chế nơi mà cả xã hội là một nhà tù, với công dân sẽ bị lao lý hóa nếu chống bạo quyền độc đảng toàn trị. Công an trị là cai trị bằng bắt bớ, tra tấn, tù đày, ám hại, thủ tiêu… nơi mà bạo lực thay nhân tính, bạo động thay nhân lý, bạo hành thay nhân bản.

Chủ thể hóa công dân để mỗi công dân là một chủ thể văn hóa mà trực diện để đấu tranh chống tham nhũng trị, trước phản xạ điếm nhục của lót tay, của bôi trơn, với phản ứng phong bì, đây không phải là văn hóa Việt. Đây chỉ là tà lộ điếm lậu của một chế độ độc đảng toàn trị, sinh hoạt như một tập đoàn tội phạm, không biết quản trị mà chỉ biết cai trị bằng công an trị để vơ vét qua tham nhũng trị. Và ngay trên thượng nguồn của đấu tranh này thì chủ thể văn hóa phải trực diện để vạch mặt chỉ tên tuyên truyền trị, với điếm ngôn là biến mọi thất bại của ĐCSVN thành xảo ngữ: thành công, thành quả, thành tích… Diệt sự thật bằng các khẩu lệnh gian dối (ơn Đảng), triệt chân lý bằng các khẩu hiệu gian manh (mừng Đảng), giết lẽ phải bằng các khẩu ngôn gian trá (Đảng tổ chức mọi thắng lợi…). Điếm để gian, gian để tráo, tráo để lận, lận để lừa dân phản nước. Để nhận ra bản lai diện mạo của ngu dân trị, sinh đôi cùng tuyên truyền trị, đã bứng đi hệ thức (kiến thức, tri thức, ý thức, nhận thức) để cắm vào đó hệ vô (vô minh, vô tri, vô giác, vô cảm) tới từ vô học sẽ tạo ra vô hậu của một văn hóa. Mà ý đồ độc hại là giả hóa cả một hệ thống giáo dục, man trá hóa cả một hệ thống tri thức với học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả, gian lận học vị để biển lận học hàm, mua bằng bán cấp để mua chức bán quyền bằng chính sự vô học trong vô hậu của Đảng cầm quyền. Nơi mà thực chất chuyên chính vô sản đã làm ra bản sắc chuyên chính vô học.

Chủ thể hóa công dân để mỗi công dân là một chủ thể văn hóa ngày ngày phải đối diện để đối luận chống bản năng trị, chính là tà sách của ĐCSVN không biết quản trị mà chỉ biết cai trị dân bằng sưu cao thuế nặng. Biến chuyện miếng cơm manh áo thành phản xạ sống còn không tình nghĩa với đồng bào. Biến giá áo túi cơm thành phản ứng sống chết không tình thương với đồng loại. Biến chuyện cơm áo gạo tiền thành phản hồi sống mái với tha nhân, từ đó đưa xã hội vào vô luân, đẩy dân tộc vào vô đạo, xua giống nòi vào vô hậu. Các chủ thể văn hóa sẽ xem để xét hậu quả tới từ thanh trừng trị, lấy thanh lọc trong xung đột nội bộ bằng thanh toán của bạo quyền giữa các bè, nhóm, phái, bọn… qua thanh trừng không thương tiếc chính các đồng chí của họ trong quy trình bất nhân hóa vì quyền-tiền. Phản xạ thanh trừng sinh đôi với phản ứng thanh toán luôn là âm giới của bọn âm binh thanh lọc nhau không bằng ánh sáng trong sạch của sự thật, của chân lý, của lẽ phải, mà chỉ qua ám sát để ám hại, thủ tiêu để triệt tiêu.

Tại đây, chủ thể hóa công dân để mỗi công dân là một chủ thể văn hóa sẽ thấy để thấu mọi hậu nạn của tội ác trị, luôn là bạo sách của ĐCSVN, nơi mà bắt bớ rồi giam cầm một cách vô pháp, tra tấn rồi nhục hình một cách vô luân. Nơi mà dân lành một sớm một chiều trở thành dân đen, nơi mà dân tốt một ngày một tuần trở thành dân oan. Nơi mà nhân dân yêu nước chống hệ Tàu (Tàu tặc, Tàu họa, Tàu hoạn, Tàu tà, Tàu nạn) bị buộc tội là những lực lượng thù địch. Nơi mà, các đứa con tin yêu của Việt tộc đã bị lao lý hóa, trở thành các tù nhân lương tâm trước một chế độ thất nhân bất đức!

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể dấn thân

Schutz, luôn đặt ba chuyên ngành tâm (tâm lý học, phân tâm học, tâm thần học) vào các định luận và định đề để định nghĩa văn hóa: “Trong văn hóa, luôn có những kinh nghiệm riêng biệt cho mọi thành viên sống trong một văn hóa mà ta có thể gọi là «choc» (ngạc nhiên trong khoái cảm) đưa ta từ thế giới này qua thế giới khác. Hãy lấy vài thí dụ, khi xem kịch và khi màn kịch kéo lên ta sẽ được đưa vào một thế giới khác. Rồi khi ta tập trung nhìn một bức tranh tới mê hồn để đi vào thế giới riêng của bức tranh. Ngay khi chúng ta chọc nhau cười khi đùa giỡn giữa bạn bè, tất cả cũng sẵn sàng đi vào một thế giới mộng tưởng chung ngay trong đời sống thực tế. Tại đây, có một vùng nội tâm trao cho chúng ta một ý nghĩa sống. Và ý nghĩa sống có đủ nội lực tạo ra niềm tin để đi sâu vào cuộc sống, có khi niềm tin này đặt lại mọi trật tự ưu tiên đang sẵn có. Văn hoá sẽ có mãnh lực, nếu văn hoá tới từ niềm tin chung của tập thể và là ý nghĩa sống có cội, có nguồn biết tạo ra cảm xúc”.

Chủ thể văn hóa Việt cần định luận, định đề làm nên định nghĩa này của Schutz, để hiểu rằng tết cứ trở đi trở lại, giỗ cứ quanh đi quay lại, lễ hội cứ lập đi lập lại, vậy mà con dân Việt luôn có cảm xúc của «choc» (ngạc nhiên trong khoái cảm). Bất chấp mọi thử thách của thời gian, từ xúc động tới cảm xúc, chúng ta vẫn: yêu tết, quý giỗ, thương lễ hội, hơn thế nữa chúng ta trân trọng tết, giỗ, lễ hội… như là phần hồn thiêng liêng trong chiều sâu tâm linh của người Việt. Như vậy, tự đây thì hãy đi tìm khai sinh và lý lịch của chủ thể văn hóa Việt là gì? Câu trả lời đã có Việt sử làm nên Việt tính, cụ thể là bản sắc Việt đã song hành cùng văn hóa Việt:

·       Chủ thể thương dân, tình cảm yêu nước thương nòi hình thành trong nội lực của sự ham muốn phục vụ đất nước, lòng hoài bão muốn hiến dâng vì dân tộc, chí mong cầu muốn giống nòi được thăng hoa. Lòng yêu nước thương nòi của một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng chính là tiềm lực sẽ làm nên nội lực của chủ thể. Dù chủ thể không có quyền lực trong tay, dù chủ thể chưa có quốc sách đưa đường chỉ lối nhưng chủ thể là tiềm lực của lý trí, nội lực của trí tuệ. Một chủ thể vì nước vì dân thì hơn vạn cá nhân đã cúi đầu hàng phục trước bạo quyền; một chủ thể yêu nước thương nòi thì hơn hàng triệu cá nhân đã quỳ gối quy phục trước tà quyền. 

·       Chủ thể tuệ giác, biết học hỏi để được học tập, đây chính là nhu cầu khai sáng của lý trí, học tập để học thật là sự cầu thị của trí tuệ, học thật bằng học lực là sự cầu tri của tuệ giác. Không có học hỏi, học tập, học thật, học lực mà muốn có học vị, học hàm thì chỉ còn cách gian, lận, điếm, xảo như hiện nay trong lò đồ giả của ĐCSVN: học giả-thi giả-điểm giả-bằng giả.

·       Chủ thể minh tri biết tuyển chọn chính quyền, biết tuyển lựa chính phủ. Chính chủ thể thấy thật sâu và thấu tận gốc là những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng sẽ dẫn dắt đa số thụ động đã khuất phục rồi quy phục bạo quyền. Chính những thiểu số được đại diện bởi cá nhân, tập thể, cộng đồng yêu nước thương nòi là những chủ thể, sẽ chỉ giáo cho một xã hội đã nhắm mắt trước bất công của tà quyền độc đảng.

·       Chủ thể nhận thức, nơi mà mỗi công dân sẽ thấy mình bị mất đi cuộc sống ngay trong chính cuộc đời của mình, nếu mình không thấy dân chủ trong đa nguyên, không thấu dân quyền trong nhân quyền. Chính chủ thể sẽ khai thị cho các kẻ lãnh đạo phải thấy rằng họ đang mất dân tộc, đất nước, giống nòi; nếu họ không cải cách đất nước bằng phát triển, dân tộc bằng tiến bộ, giống nòi bằng văn minh.

·       Chủ thể giáo lý luôn có nhận thức: bạo quyền độc đảng chỉ là cơn bão đang quật gục tất cả những gì đã được xây dựng. Tà quyền tham nhũng là cơn lũ sẽ vùi lấp tất cả những gì đã được vun đắp. Ma quyền tham tiền là cơn sạt lở sẽ nhận chìm tất cả những gì đã được tổ tiên nâng niu, dân tộc gìn giữ. Chủ thể giáo lý luôn có nhận thức: cực quyền độc trị là cơn động đất sẽ siết ngộp tất cả những gì đang bền vững; cuồng quyền độc tôn là đợt sóng thần của quỷ giới, sẽ nhấn chìm tất cả những gì đang được trao truyền, từ văn minh của dân tộc tới văn hiến của giống nòi.

·       Chủ thể đạo lý, sống với ý thức thấy tội ác mà không tố cáo tội ác là nhắm mắt để rơi vào quỷ lộ, thấy tội lỗi mà không nhìn thẳng mặt tội lỗi là cúi đầu để sa vào tà lộ. Thấy tội đồ mà không vạch mặt tội đồ là khom lưng để chui vào âm lộ của âm binh. Chủ thể không chấp nhận: nhắm mắt, cúi đầu, khom lưng, vì hành vi phản chủ thể là dễ dãi quỳ gối trước bạo quyền độc tài, cũng hành động mau chóng nằm rạp đất để cuồng quyền giết hại đồng loại, tiêu diệt đồng bào của mình.

·       Chủ thể nhân phẩm, nơi mà quan niệm về nhân lýnhân tính sẽ xây dựng nhân bảnnhân vị trên nền của nhân đạonhân nghĩa, được trợ duyên bởi nhân tâmnhân từ, được chế tác bằng nội công của nhân tri và bản lĩnh của nhân quyền. Tất cả được bắt đầu xây dựng bằng sự thật bây giờ của một xã hội và ở đây của một dân tộc. Đây là công trình của nhân trí biết vận dụng lẽ phải để tận dụng đạo lý của tổ tiên. Chính sự thật và lẽ phải sẽ làm nên quyết đoán trong quyết định, chính lẽ phải dẫn dắt hành vi trong hành động, để công trình này được đi tới chủ điểm là chân trời, nơi sự thật và lẽ phải hội tụ để vun đắp nhân phẩm.

·       Chủ thể đa nguyên, đặt niềm tin vào hệ đa (đa tài, đa trí, đa dung, đa năng, đa hiệu) để tạo đa đảng mà bảo vệ vừa dân chủ, vừa nhân quyền. Chủ thể không thể nào phát triển được lý trí lớn của một dân tộc một trăm triệu dân bằng sự quản thúc trong độc lộ của độc đảng trong độc trị của vài trăm đầu nậu. Chủ thể không thể nào có trí tuệ rộng trong môi trường độc quyền chỉ biết độc tôn của vài chục đầu sỏ chủ mưu quản chế dân tộc. Chủ thể không thể nào có tuệ giác cao trong ngõ cụt của độc tài bằng độc trị của vài tên đầu lãnh. Người ta không thể nào có lý trí lớn, trí tuệ rộng, tuệ giác cao bằng độc đạo vô cùng độc hại độc đảng.

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể tri luận

Chủ thể văn hóa còn có bản lĩnh chống lại bản năng của con người, vô tình hay cố ý tạo cơ nguy cho đồng loại, chỉ vì muốn tha nhân phải làm theo ý của mình, đi theo kinh nghiệm của mình. Chủ thể văn hóa chọn dân chủ vì chuộng nhân quyền, chỉ vì độc đảng trong toàn trị bằng công an trị và tham nhũng trị thì nguy hại cho đất nước, nguy hiểm cho dân tộc, nguy nan cho giống nòi. Độc đảng đã cướp quyền để lạm quyền, tham quyền để lạm quyền, muốn cực quyền nên dể đi vào con đường cuồng quyền. Chính bạo quyền độc đảng toàn trị đã lấy khống chế để áp chế, đã tạo áp lực bằng bạo lực, vận dụng phương tiện bạo động nên để tận dụng bạo hành chống đồng bào của mình. Chủ thể văn hóa trong các quốc gia có văn minh dân chủ, có văn hiến nhân quyền luôn biết sử dụng hệ nhân (nhân phẩm, nhân lý nhân tính, nhân bản, nhân vị, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân tâm, nhân từ, nhân tri, nhân quyền) để kiểm nghiệm những kẻ lãnh đạo chính trị. Chính khách cũng như chính giới phải được thường xuyên kiểm định bằng đạo đức học, phải thường xuyên được kiểm soát bằng tri thức học, phải thường xuyên được kiểm tra bằng tâm thần học. Chủ thể văn hóa biết nhận trách nhiệm này!

Chủ thể văn hóa còn biết đối xứ với đồng loại như đối xử với chính đồng bào của mình, còn biết đối xử với đồng bào như đối xử với kẻ đồng thuyền trong gian nan, và đối xử với kẻ đồng thuyền trong gian nan như đối xử với kẻ đồng cam cộng khổ trong đấu tranh vì các giá trị của cộng hòa và dân chủ là: tự do, công bằng, bác ái. Và đối xử với kẻ đồng cam cộng khổ như đối xử với kẻ sẽ cùng chia ngọt sẻ bùi với mình, để nhận ra đạo lý đồng hội đồng thuyền là kết quả của đồng chung đồng chia. Mọi chung chia của thủa nằm gai nếm mật, mọi chia chung của thời hạt muối cắn làm đôi là những giá trị thực tiễn của chủ thể. Nên chủ thể văn hóa không bao giờ chấp nhận các giá trị thực tiễn của cuộc sống bị xóa bỏ bởi đảng cướp quyền để cuồng quyền, lại tự ban phát đặc quyền, đặc lợi, đặc ân cho chính mình.

Nên chủ thể văn hóa phải tố cáo đảng cực quyền này trước công luật quốc gia và trước công pháp quốc tế. Vì đảng này không những bất chính với xã hội mà còn bất lương với dân tộc, đảng này có hành động vô nhân với hành tác vô phúc trong hành vi vô hậu hóa giống nòi của nó. Chủ thể văn hóa gởi ước nguyền vào tiến bộ cho dân tộc, gởi ước nguyện vào phát triển đất nước, gởi ước mơ thăng hoa trong văn minh cho giống nòi. Ước nguyền tiến bộ, ước nguyện phát triển, ước mơ văn minh. Nên chủ thể văn hóa đứng về phía đạo đức của tổ tiên, chủ thể đứng về phía đạo lý của chính nghĩa, chủ thể đứng về phía luân lý của chính trị.

Chủ thể văn hóa trực tiếp yêu cầu chính quyền không được xa rời rồi buông bỏ các quốc sách vì phát triển đất nước, vì tiến bộ dân tộc, vì văn minh giống nòi. Và đảng nào đi ngược lại phạm trù này chỉ là đảng phản dân hại nước; như bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay với ý đồ của tà tâm ngay mật nghị Thành Đô trước Tàu tặccứu đảng hơn cứu nước. Chủ thể văn hóa biết xem-để-xét là bạo quyền này đã sa lầy rồi lún ngập vào quỷ lộ buôn dân bán nước. Chủ thể văn hóa thấy để thấu và từ chối phải chịu đựng một số phận mà mình không được chọn lựa, để nhân kiếp không phải là nhân số. Mà nhân kiếp là quá trình chuyển biến nhân tính thành nhân lý để nhận lại nhân bản, chính là nơi cõng, bồng, ẵm, bế nhân phẩm trong bất cứ hoàn cảnh nào của nhân thế, trong bất cứ hiện cảnh nào của nhân gian, trong bất cứ thực cảnh nào của nhân họa. Đừng hứa hẹn láo khoét về một xã hội chủ nghĩa đầy đủ vật chất, đừng hẹn hò láo điếm về một xã hội cộng sản dư thừa vật chất! Mà hãy tạo mọi điều kiện tức khắc bằng những cơ hội tức thì là lắp đôi cánh cho nhân sinh ra khỏi túng quẩn, chắp đôi cánh cho nhân thế bay xa bất công, nâng cao đôi cánh cho nhân gian bay cao về hướng công bằng, để công bằng vừa được tiếp đón tự do, vừa được đón nhận bác ái.

Như vậy, nhân diện, nhân dạng, nhân cách của chủ thể văn hóa ra sao? Chủ thể văn hóa bắt đầu bằng phương án lập nên phương trình chung- để-chia, và chia-để-chung biết dựa trên đạo đức của tổ tiên Việt, đạo lý của giống nòi Việt, luân lý của dân tộc Việt, tất cả cùng chung chia nhau một thế giới chung. Vì biết gạt ra cái tôi trung tâm, cái vị kỷ vụ lợi, cái ích kỷ trục lợi, nên chủ thể văn hóa Việt biết vất đi mà không tiếc nối mọi bản năng của thú tính: mạnh ai nấy sống, ai chết mặc ai, vất bỏ vô cảm trong vô tri, vất luôn vô giác trong vô minh. Chủ thể văn hóa Việt đấu tranh chống lại cái bạo sinh ra cái tà, cái ma sinh ra cái quỷ, ngày ngày diễn ra trong xã hội Việt hiện nay, với dân tộc Việt như «cá nằm trên thớt» của bạo quyền độc đảng toàn trị.

Từ chủ thể văn hóa tới chủ thể biết sống

Nếu chủ thể văn hóa Việt mang nội lực của đạo đức của tổ tiên Việt, đạo lý của giống nòi Việt, luân lý của dân tộc Việt, thì chủ thể văn hóa Việt này phải biết xây dựng tương lai của các thế hệ mai hậu ngay trên quá khứ của Việt tộc. Mà trong Việt sử, Việt tộc vừa là dũng tộc biết thắng mọi ngoại xâm, vừa là minh tộc biết bảo tồn đạo đức của tổ tiên Việt, biết bảo quản đạo lý của gióng nòi Việt, biết bảo trì luân lý của dân tộc Việt. Chính kho tàng (Việt tộc = dũng tộc + minh tộc) mà chúng ta thừa hưởng của quá khứ này sẽ vốn liếng cho ngày mai của chúng ta và ngày mốt con cháu chúng ta. Cùng chia nhau quá khứ để thấy cho thấu là quá khứ là một thế giới vô cùng sinh động của văn hoá, để biết mà hiểu biết nhiệm vụ của chủ thể văn hóa Việt là cội rễ hoá công dân Việt trong sự xúc cảm của tập thể, bằng phương trình:

Việt tộc = dũng tộc + minh tộc.

Văn hoá làm nên sung lực của ký ức, mà ký ức biết nói rõ ràng, biết kể kỹ lưỡng về quan hệ huyết thống của một dân tộc gọi nhau là đồng bào, vì có cùng cha sinh mẹ đẻ, ra đời cùng một bào thai, nên đồng hội đồng thuyền trong mọi thử thách, trong mọi thăng trầm. Nơi đây, chủ thể văn hóa Việt phải phân tích rõ là tự do cá nhân cho ta tính vô thần, nhưng tự do này không tặng ta quan hệ thân tộc; còn tôn giáo có lúc giới hạn tự do cá nhân nhưng trao tặng cá nhân quan hệ cộng đồng có cùng một niềm tin. Tại đây, chúng ta phải phân tích để giải thích sự thảm bại làm nên thảm họa của bạo quyền độc đảng toàn trị, đã lấy ý thức hệ cộng sản vô thần để truy cùng diệt tận nội chất hữu thần của tôn giáo. Thảm nạn của bạo quyền độc đảng toàn trị với ý thức hệ cộng sản vô thần đã không thấy cho thấu là tôn giáo không những là niềm tin của một cộng đồng, mà còn là quan hệ tâm linh (rất vững nên rất bền) trước các đe dọa tới từ bạo quyền, tà quyền, quỷ quyền, ma quyền đang sa lầy trong âm lộ phản văn hóa của nó.

Văn hoá mang quan hệ thân tộc, làm cầu nối cho thống tộc, khi bạo quyền độc đảng toàn trị khinh chê rồi miệt thị hoặc coi thường văn hoá, tức nó đang tạo ra sự chia rẽ giữa người và người đang sống cùng một văn hóa. Chủ thể văn hóa Việt phải ý thức rành mạch điều này để nhận ra tâm hồn của một văn hóa là: chia nhau hiểu biết để tạo ra sự đồng cảm, và sự đồng cảm sẽ tạo ra sự thoải mái trong môi trường sống. Vui sống trong sống vui, chớ không phải sống để bị đe dọa kiểu bởi bạo quyền, để bị trù ếm nhau bởi tà quyền, để bị vùi dập nhau bởi quỷ quyền, để bị ám hại nhau bởi ma quyền. Văn hoá không hề là phạm trù của các chuyện tư tưởng cao xa, văn hóa có khả năng dùng kinh nghiệm hằng ngày để tư duy bằng thực nghiệm cụ thể, từ đó tìm ra câu trả lời thích đáng cho hiện tại và cho tương lai. Nên định nghĩa sâu và cao của văn hoá luôn là một quá trình có ý thức, nơi đây các chủ thể văn hóa Việt có thể cùng nhau tới cùng một chân trời của tri luận: «Nếu được định nghĩa văn hoá là quá trình sử dụng kiến thức tập thể để phục vụ ý thức cộng đồng, thì chủ thể văn hoá sẽ là tác nhân chủ động vận dụng tối đa tri thức của dân tộc rồi tận dụng tối đa nhận thức về văn minh để phục vụ cho đồng bào và đồng loại». Đây là định nghĩa về văn hóa và chủ thể văn hoá của riêng tôi, tình riêng xin một chút này làm tin.

Tuổi đời ngày ngày lấn tuổi người, nhưng từ tuổi trẻ giờ tới tuổi trọng chúng ta vẫn luôn xúc động về dân ca Việt, ca dao Việt, châm ngôn Việt, ngạn ngữ Việt, thành ngữ Việt… cụ thể là về nội cảm của văn hóa Việt.  Mỗi lần chúng ta nhớ rồi đọc: Lạy trời mưa xuống/ Lấy nước tôi uống/ Lấy ruộng tôi cày/ Lấy đầy bát cơm/ Lấy rơm đun bếp ; chúng ta bồi hồi xúc động, chúng ta đau đáu chờ được xúc cảm! Bắt đầu là động từ lạy, lạy để thấy cho thấu cái hữu hạn nhỏ bé của con người trước sự tuần hoàn của trời đất, nhưng ngay sau đó là động từ lấy, như một hành tác rất chủ động liên tục biết lấy sự thông minh của nhân trí ra mà sinh tồn. Động từ lấy, như lấy ra cái thấy để làm ra cái thấu, lấy ra cái khôn để làm ra cái của bằng cái tài của chính mình, đây chính là mãnh lực của văn hóa. Hai động từ lạylấy, song hành trong tâm giáo, song lứa trong đắc khí, lạylấy hợp vần, tạo nhạc tính cho một hành tác ca dao thật ngắn và gọn, bắt đầu là lạy trời mưa xuống và kết thúc là lấy rơm đun bếp. Trong quá trình này, Việt tộc đã biến nước ban đầu của trời thành lửa để đun bếp, nấu cơm mà nuôi thân, cùng lúc hóa giải sự xung khắc giữa nướclửa, rồi tạo ra sự hòa hợp trong hài hòa để bảo bọc sự sống. Đây chính là hành vi của văn hoá luôn biết: thương, yêu, quý, trọng sự sống.

 

 

 

 

 

 

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới. Các công trình nghiên cứu Việt Nam học của Lê Hữu Khóa có thể tham khảo qua facebook VÙNG KHẢ LUẬN (trang thầy Khóa).

 

                        Cam vi nhũ tử ngưu.

                                          Nguyễn khắc Mai

Từ hôm tiễn ông Táo vừa qua, tôi bụng bảo dạ năm nay phải có bài khai bút đầu Xuân Tân Sửu.Nói về khai bút đầu năm, tôi đã thuộc lòng bài thơ tứ tuyệt,mà cha mẹ dạy cho từ hồi còn lớp enfantin,tiếng  pháp đọc là ăng phăng tanh,lớp một tiểu học,mà cụ giáo Nguyễn Công Hoan bảo trẻ con lớp một đầu đầy trốc ghẻ nên gọi chúng là ăng phăng tanh,quả thật đầu chúng tôi hồi đó rất tanh.Bài thơ như vầy:

                        Minh niên khai bút, bút khai hoa,

                        Vạn sự giai thành phước hạnh đa.

                        Đa tử, đa tôn, đa phú quý,                     

                        Đắc tài đắc lộc đắc vinh hoa.

Dịch:                Đầu năm khai bút, bút khai hoa,

                         Vạn sự đều thành phước hạnh đa (nhiều)

                        Nhiều cháu, nhiều con nhiều giàu có.

                        Có tiền, có lộc có vinh hoa. 

Đó là những mong đợi binh thường của xã hội, của  một thời vang bóng,mà nay vẫn không ít người vẫn  còn mộng tưởng!

Đã lâu tôi muốn kể về một kỷ niệm mà tôi đã chứng kiến,cũng là cái Tết cái Xuân đầu tiên mà Văn Cao nói đến.Rồi tự nhiên tôi nghĩ đến hình tượng con trâu trong văn học khuynh tả.Hình tượng con trâu trong hai câu thơ của Lỗ Tấn.

I.-Cam vi nhũ tử ngưu.

Lỗ Tấn từng có hai câu thơ nỗi tiếng, nói về thái độ của người cách mạng yêu nước, chân chính đối với kẻ cường quyền và đối với nhân dân:

                        Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ,

                        Thủ phủ cam vi nhũ tử ngưu.

Hồ chí Minh từng dịch khá đạt:”Trừng mắt coi khinh ngàn lục sĩ. Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng.” Bấy giờ vừa giải phóng  được các tĩnh biên giới phia bắc,đánh thông được với nước Tàu.Hồ chí Minh và những người lãnh đạo cọng sản bèn khôi phục đảng cọng sản Dông dương,mở Đại hội II tại Việt bắc , đổi tên là Đảng Lao động.Tại Đại hội ấy,có ba điều quan trọng được nêu lên.Môt là đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp.Hai là lấy tư tưởng Mao trạch Đông làm kim chỉ nam cho cách mạng Việt nam.Ba là lấy tác phong Hồ chí minh làm phương châm chỉ đạo hành động.Hai điều quan trọng này đã được ghi thành Điều lệ của Đảng.Sau khi bế mạc Đại hội, giữa rừng Việt bắc Hồ chí Minh họp mít tinh công bố Đại hội.Trong cuộc mit tinh ấy Hồ chí Minh đưa ra hai câu thơ của Lỗ Tấn để giải thích thái độ của dảng Lao động đối với Dân với Nước. Ông noi,thiên phu chỉ là bọn đế quốc thực dân,địa chủ phong kiến bóc lột dân ta ,thì phải dũng cảm, kiên quyết đấu tranh..Nhũ tửngưu,chinh là nhân dân hiền lành thì “cam vi nhũ tử ngưu”nghìa là cúi đầu cam chịu làm người phụcvụ.Ý nghĩa hai câu ấy thật sâu sắc, thâm thúy,đầy tình cảm cao thương.Nó là tinh thần thái độ,tình cảm chân thành của nhiều người trong cái “thuở ban đầu lưu luyến ấy”,cái thời ký dấn thân làm “Chiến sĩ Việt nam,ra đi để giành  Dộc lập, Tự do Hạnh phúc Lập quyền dân, lập nền Dân chủ cọng hòa.

Đẹp đẻ và cao thượng biết bao cái tư tưởng ấy: Cam vi nhũ thử ngưu!

Có một lần khi đi làm Hội thảo về tư tưởng Hồ chí  Minh cùng  Đặng Xuân Kỳ , trưởng nam của ông Trường chinh,tôi bảo với Kỳ., Anh  gần Trung ương nên đem hai câu thơ của Lỗ Tấn mà Hồ chí Minh đã nêu ra ở Đại hôi II, như một phương châm hành xử với Dân.Kỳ cười bảo ông nhầm rồi, giờ đây người ta chi muốn cởi lên lưng dân đè đầu cởi cổ họ, chứ có ai muốn làm trâu ngựa cho dân nữa đâu!

Bước vào năm con Trâu vàng TânSửu này,anh Thái Sơn trong hội đồng Francofonie ở Paris có gởi cho tôi bài xướng:

                        Tân Sửu mong thoát ách .

                    Sửu tới vươn vai tháo ách cày,

                    Hầu mong thoát được kiếp trâu đây.

                    Dương sừng dẹp hết phường đầu nậu,

                    Vùng dậy phá tan tù ngục đày,

                     Ác nghiệp đã gieo giờ phải trả

     Thiện duyên có gặp cũng không vay,

      Năm nay Xuân đến điều may mắn,

      Hy vọng dân nam mãn hạn cày

Tôi cũng mạo muội có bài họa để đáp:

                      Tân Sửu Trâu vàng sắp tới đây,

                       Cớ chi Đất Nước cứ lưu đày.

                        Đầu trâu một lũ đâm cho hết,

                        Mặt ngựa lôi ra cả một bầy.

                        Quân ác đã gieo bao kiếp nạn,

                        Tới ngày chúng phải trả lãi vay.

                        Xuân này Xuân nữa rồi Xuân mãi,

                        Trâu hết buổi cày thong thả nhai.

II.-Ui chào họ tài hung !

Tôi kể kỷ niệm của tôi vào ngày mồng hai têt Bính Thìn.Bấy giờ tôi đã về Huế làm việc hơn tám tháng.Sau khi tiếp quản giáo dục một thời gian, tôi được điều sang làm công tác thanh niên ở tỉnh đoàn Thừa thiên.Đúng mồng hai tết Bính Thìn (1976) tôi cùng 300 thanh  niên huyện Hương Thủy đi làm công tác xã hội chủ nghĩa,nạo vét lòng con sông đào lấy nước cho dân làm vụ đông xuân.Xa xa là chiếc cầu ngói Thanh toàn nổi tiêng “Ai về cầu ngói Thanh toàn. Cho em theo với một đoàn cho vui”..Giờ giải lao, tôi đi dọc bờ sông,thấy trước mạt có một túp lều.Hỏi lều của ai dựng đó. Anh em cho biết đó là một bà mẹ có 11 con gồm trai gái dâu rễ.9 anh chị đã hy sinh cho cách mạng,Vì có trách nhiệm hàng tuần đi giao ban với tướng Lê Tự Đồng, chủ tịch ủy ban quân quản.Tôi cũng muốn tìm hiểu tình hình cơ sở.Tôi đến bên túp lều thấy một bà mẹ tóc bạc, hom hem đang ngồi nhặt những con tép trong chậu bùn anh em bốc lên cho mẹ.Tôi ngồi xuống bên cạnh , chào hỏi.Tôi nghĩ mình cán bộ cấp tĩnh mà có hôm phải lắng nước tro để giặt áo,bà mẹ nghèo ở cơ sở làm sao có thể sướng được.Tôi nói còn khổ quá mẹ hỉ,may mà hêt chiến tranh.Bà mẹ chỉ  gật gật.Tôi hỏi tiếp, rứa các anh ở xã họ làm việc thế nào,tôi mong có được vài thong tin từ một người đàng mình, nơi một xã có chính quyền mới.Mẹ nì rứa các anh ở xã, họ làm việc thế nào.Mẹ im lặng một chặp rồi nói.Ui chao họ giỏi hung. Tôi mừng quá , sẽ có những thông tin nào sửa lại trường, lập nhà mẫu giáo,chăm sóc người thương tật, ổn định cuộc sống cho người hồi cư…Mẹ ơi rứa họ giỏi hung là giỏi ra răng. Hai ba lần gặng hỏi,cuối cùng mẹ giơ hai tay ra phía trước,rồi quơ vào người ba cái.và phán một câu làm tôi điếng cả người.”Tài hơn ngụy.”!

Tôi không biết các bạn nghĩ về tình tiết này thế nào.Còn tôi sau đó khi đi giao ban tôi đã báo cáo 300 thanh niên Hương Thủy đi nạo vét kênh mương ngay mồng hai tết giúp dân có nước làm mùa.Rồi tôi kể tiếp câu chuyện với bà mẹ quê.Tôi thưa với tướng Đồng, chỉ trong vòng sáu tháng Việt cọng đã mất giá.Tôi chắc mẹ đã được phong Mẹ Anh Hùng, không biết mẹ còn hay đã mất.Nhưng hình ảnh người mẹ quê hom hem ngồi nhặt từng con tép nhỏ trong cái chậu bùn với một động tác rất biểu cảm thâm thúy và phán một câu xanh rờn:Tài hơn Ngụy.vào cái sáng mồng hai tết Bính Thìn 76 vẫn còn sống động trong tôi.

Bây giờ, cứ mỗi lần nghe bài hát Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao, tôi lại nhớ về cái ngày Muà Xuân đầu tiên ấy và hình ảnh bà mẹ quê với cử chỉ rất minh triết với một đánh giá quá thật thà, nghe cứ quặn  thắt trong ruột. Mơ tưởng và khát vọng với giai điệu mượt mà với ca từ đầy hình tượng mỹ cảm và triết lý. Nào bầy chim én và đàn con đã trở về, nào làn khói và tiếng gà gáy bên sông.Nào triết lý giờ đây người biết yêu người.Cứ dậy lên trong tôi một tình cảm trái ngược.Một bên là mỹ cảm đầy mộng mơ lãng mạn.Một bên là cái thực tế trần tục đến xót xa.Chã nhẽ cái dốt của kẻ có quyền thì nhất thiết dẫn tới cái tham, như là một cái cọng nghiệp của hệ thống.

Hay là đừng hát nữa, đừng đi tìm thông tin nữa.

Thế là tôi đã khai bút với hai chủ đề con trâu và ngày mồng hai tết đầu tiên.môt cái tết có tên là rồng lại dúi tôi xuống tận đáy bùn của một thực tại mới./.