Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020

YÊU CẦU NHÀ CẦM QUYỀN THỰC THI HIẾN PHÁP 2013, ĐÌNH CHỈ BẮT BỚ NGƯỜI PHẢN BIỆN ÔN HOÀ VÀ TRẢ TỰ DO CHO CÁC TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM

 Kính gửi: Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 

Trong năm 2020 rất nhiều công dân Việt Nam đã bị bắt và kết án  “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống lại nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, nói ngắn gọn là viết và công bố lên mạng xã hội những bài phê phán một số chính sách, việc làm của nhà cầm quyền, tiêu biểu là các nhà báo tự do Phạm Chí Dũng,Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tâm.

Ngày 15/12/2020, nhà thơ cựu chiến binh Trần Đức Thạch bị toà án tỉnh Nghệ An xử 12 năm tù và 3 năm quản chế vì tội “chống lại chính quyền nhân dân”.

Ngày 21/12/2020 tòa án Tp HCM xét xử, tuyên án các ông Nguyễn Đăng Thương, Trần Trọng Khải, Huỳnh Anh Khoa.

Mới đây nhà cầm quyền thành phố Cần Thơ bắt Ông Trương Châu Hữu Danh về tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích cá nhân nhà nước”, sau đó bắt Bà Lê Thị Bình  vào ngày 22/12/2020.

Và trước đó hàng trăm người bị bắt và tống giam cũng với những lý do tương tự, theo các điều 117 và 331 Bộ luật Hình sự 2015  đã bị dư luận trong nước và các tổ chức quốc tế, chính phủ các nước lên án và yêu cầu nhà nước VN trả tự do vô điều kiện.

 

Thưa ông Chủ tịch Nước

Tất cả các trường hợp nêu trên đều là phản kháng phi bạo lực, phản kháng bằng phản biện báo chí. Ông cũng biết rằng dưới sự lãnh đạo của ông, hàng loạt tướng tá, quan chức chính phủ tới cấp bộ trưởng bị truy tố và xử lý vì tội tham nhũng; trong hàng ngũ Đảng Cộng sản tham nhũng đã xâm nhập vào đến Bộ Chính trị; một phần không nhỏ trong bộ máy cầm quyền đã chống lại nhân dân bằng hình thức tham nhũng của các cá nhân tổ chức từ hạ tầng lên đến thượng tầng, cả chiều rộng và chiều sâu. Những vụ tham nhũng đó được phát hiện phần lớn nhờ báochí “lề trái”, những tờ báo phản biện xã hộicủa chính những con người ông đã bỏ tù.

Qua các lệnh bắt cũng như các tội trạng được nêu tại các phiên tòa, không thấy có bất cứ dấu hiệu nào lật đổ, chống phá nhà nước, mà chỉ có phản biện xã hội nhằm quét sạch rác rưởi trong bộ máy cầm quyền để bộ máy cầm quyền ngày càng tốt hơn, xã hội ngày càng tiến bộ, nhân dân càng no ấm hạnh phúc. Thay vì ghi công và tôn vinh những con người dũng cảm có trách nhiệm với quê hương đất nước, nhà cầm quyền lại khủng bố, bắt bớ, giam cầm họ.Đó là việc làm vô đạo, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân và xu thế thời đại, xu thế dân chủ tự do và phát triển mà chính các ông đã đưa vào dự thảo nghị quyết Đại hội 13 của Đảng Cộng sản VN.

 

Một nhà nước không chấp nhận phản biện là nhà nước đui mù. Một xã hội không có phản biện là xã hội không phát triển. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực để sự vật  phát triển,đó là nguyên lý bất biến.

Vì những lý do trên, chúng tôi, các cá nhân, các tổ chức xã hội dân sự yêu cầu ông:

1.   Chấm dứt bắt bớ và trả tự do vô điều kiện những cá nhân bị bắt bị xử bị tù vì vi phạm điều 117 và 331 của luật hình sự 2015.

2.   Chỉ đạo Quốc hội huỷ bỏ hoặc sửa lại các điều trên để khuyến khích quyền phản biện trong nhân dân.

3.   Chỉ đạo các cấp thực hiện đầy đủ hiến pháp 2013, nhanh chóng ban hành luật lập hội và luật biểu tình.

 

Ngày 30 tháng 12 năm 2020

 

A. Tổ chức:

1.   Lập Quyền Dân, đại diện: ông Nguyễn Khắc Mai

2.   Diễn đàn Bauxite Viêt Nam, đại diện:GS Phạm Xuân Yêm.

3.   Diễn đàn Xã hội Dân sự, đại diện: Tiến Sĩ Nguyễn Quang A.

4.   Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, đại diện: nhà văn Nguyên Ngọc.

5.   Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, đại diện:

 

B.  Cá nhân:

1.    Phạm Xuân Yêm, GS Vật lý, Paris, Pháp

2.   Nguyễn Huệ Chi, GS Ngữ văn, Hà Nội

3.   Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia

4.   Phan Hoàng Oanh, TS Hóa Học, Sài Gòn

5.   Nguyễn Mai Oanh, Ths Kinh tế Phát triển, Sài Gòn

6.   Đặng Thị Hảo, TS Văn học, Hà Nội

7.   Trần Đức Quế, Chuyên viên hưu trí, Hà Nội

8.   Nguyễn Khắc Mai, Hà Nội

9.   Nguyễn Quang A, TS Tin học, Hà Nội

10. Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, Thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Hà Nội

1. Hà Sĩ Phu, TS Sinh học, Nhà văn tự do, Đà Lạt

12. Hoàng Dũng, Phó GSTS Ngữ văn,Tp HCM

13. Nguyên Ngọc, Nhà văn , Hội An

14. Kha Lương Ngãi, Nhà báo, nguyên Phó TBT báo SGGP, TV CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

15. Võ Văn Thôn, nguyên Gíam đốc Sở Tư pháp tp HCM, TV CLB Lê Hiếu Đằng

16. Mạc Văn Trang, PGS TS Tâm lí, Sài Gòn

17. Nguyễn Thị Kim Chi, Nghệ sĩ,  TV CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

18. Nguyễn Hữu Vinh (Basam), Hà Nội

19. Lê Phú Khải, Nhà văn, TV CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

20. Lê Thân, Nhà hoạt động xã hội, TV CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

21. André Mendras (Hồ Cương Quyết),TV CLB Lê Hiếu Đằng, Paris, Pháp

22. Lại Thị  Ánh Hồng, Diễn viên múa,  TVCLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn

23. Trần Hữu Quang, Phó GS TS Xã hội học , Sài Gòn

24. Hoàng Hưng, Nhà thơ, Sài Gòn

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2020

ĐỐI LUẬN CHỐNG HOẠN BỊNH

 

Làm sao đối thoại được với các lãnh đạo của ĐCSVN? khi độc đảng đã làm nên độc thoại từ tuyên giáo tới tuyên truyền. Làm sao đối thoại được với các lãnh đạo của ĐCSVN? khi độc đảng là mẹ đẻ của độc tài dù các lãnh đạo này bất tài trong mọi chính sách, vắng chuyên tài, rỗng đa tài. Làm sao đối thoại được với các lãnh đạo của ĐCSVN? khi độc đảng là cha nòi của độc trị dù các lãnh đạo bất tài này không hề biết quản trị từ chính trị tới kinh tế, từ văn hóa tới giáo dục, từ con người tới môi trường… Làm sao đối thoại được với các lãnh đạo của ĐCSVN? khi độc đảng có tổ là độc quyền chỉ biết tham quyền để bám quyền, lạm quyền để cực quyền, loạn quyền vì cuồng quyền. Làm sao đối thoại được với các lãnh đạo của ĐCSVN? khi độc đảng có tông là độc tôn để độc lợi, biến đặc quyền để đặc lợi, vụ lợi vì tư lợi.

Nếu độc đảng sinh bầy đẻ đống ra một loạt: độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn… thì làm sao đối thoại được với các lãnh đạo của ĐCSVN? đối thoại là để đối luận, trực luận để trao luận, cụ thể là để vứt đi độc luận có trong độc ngôn. Vì độc thoại, tức là mình nói mình nghe, thì hậu quả trực tiếp là tự tạo ra độc ngu, độc đần, độc dại, độc dốt, mà không biết là chính họ ngu, đần, dại, dốt. Lịch sử của ĐCSVN chỉ là đảng sử, diệt đối thoại để chuyên chính, triệt đối luận để độc ngôn. Từ lãnh tụ lập đảng tới lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN, họ không dám đối thoại với trí thức vì họ vô tri ngay trên ý thức hệ vô sản mà họ tuyên truyền, họ không dám đối luận với nhận thức của xã hội dân sự vì họ vô minh ngay trong chính sách của họ. Không dám trực luận với dân tộc, vì họ vô luận trước các giá trị của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái), trước các giá trị của nhân quyền tiếp dân chủ để đón đa nguyên bằng đa trí, đa tài, đa năng, đa lực, đa hiệu… chính là bản lai diện mục của đa luận là gốc, rể, cội, nền của đối luận làm nên sung lực của đối thoại

Không biết đối thoại, không muốn đối luận, nên không biết nghe, không biết nghe nên không hiểu, không hiểu nên không thông cảm, nên đừng trông chờ họ thấy nỗi khổ của đồng bào, thấu niềm đau của đồng loại. Theo tâm lý học, sống trong độc thoại, mình nói mình nghe là tâm bịnh biến đơn lẻ thành tự cô độc hóa mình. Theo phân tâm học sống trong độc thoại bằng độc luận là loại tâm bịnh biến cô độc thành tự ngộ độc. Theo tâm thần học, độc luận bằng độc quyền là loại tâm bịnh biến cuồng quyền thành tử quyền. Tờ khai sinh cũng sẽ là tờ khai tử của mẹ đẻ cha nòi độc đảng sinh đống đẻ đàn ra độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn… Tà kiếp của các lãnh đạo của ĐCSVN là đây! Đã được nhận diện bằng sử luận, có nội dung của sử tính, mang nội hàm của sử học, mặc dầu chưa thành văn bản chính thức trong hiện sử, nhưng trước hết thì đây cũng chính là thảm sử của Việt tộc hiện nay, phải sống dưới một chế độ mang tâm bịnh độc đảng, mang ác bịnh độc quyền, mang hiểm bịnh độc tôn.

Một chế độ mang tâm bịnh, một cơ chế kham hiểm bịnh, một chính quyền lậm ác bịnh, thì thể lực, trí lực, tâm lực của các lãnh đạo của ĐCSVN đều trong tình trạng trọng bịnh, đây là bi hài kịch từ lảnh tụ sinh ra đảng tới các lãnh đạo đang nắm quyền trong đảng; mà đây cũng là họa kịch cho dân tộc, hoạn kịch cho xã hội, nạn kịch cho đất nước và đã là thảm kịch cho giống nòi. Hãy đi sâu vào giải luận bằng diễn luận của Nguyễn Du: ma đưa lối quỷ dẫn đường, để thấy cho thấu là tà tâm trong quỷ trí của các lãnh đạo của ĐCSVN không còn là hiện trạng của đám lãnh đạo, thực trạng của chế độ, mà nó đã là thảm trạng trùm phủ lên xã hội, dân tộc, đất nước, giống nòi. Vì từ khi ĐCSVN cướp được chính quyền, nó là một thảm trạng trùm phủ lên mọi nhân lộ của sự thật, mọi ánh sáng của chân lý, mọi chân trời của lẽ phải.

Nạn kiếp của Việt tộc hiện nay không những ngày ngày càng xa rời quỷ đạo phát triển đất nước, tiến bộ dân tộc, văn minh giống nòi, mà còn rơi vào nghịch lộ của âm đạo qua xuất khẩu lao động, trai thì lao nô, gái thì nô tỳ cho các quốc gia láng giềng mà trước đây từ lý trí tới trí tuệ không hơn gì Việt tộc. Các quốc gia láng giềng châu Á này chỉ vượt qua lưng, qua vai, qua đầu người Việt để đóng vai chủ người Việt đang phải làm tôi tớ cho họ chỉ từ khi ĐCSVN cướp được, nắm được, cầm được quyền chính trị trên đất nước Việt. Chính tâm bịnh, hiểm bịnh, ác bịnh của các lãnh đạo của ĐCSVN đang khốn kiếp hóa cả một dân tộc! Chính các lãnh đạo của ĐCSVN đang điếm nhục hóa cả một giống nòi! Vì tâm bịnh, hiểm bịnh, ác bịnh làm nên hoạn bịnh trong não bộ của các lãnh đạo của ĐCSVN không chỉ thuộc về không gian tri thức luận của tâm lý học, phân tâm học, tâm thần học, mà nó đã ô nhiễm hóa đạo lý tổ tiên, đã ô nhục hóa đạo đức dân tộc, đã ô trọc hóa luân lý giống nòi.

Tất cả các chuyên ngành của khoa học xã hội nhân văn khi nghiên cứu, khảo sát, điều tra, điền dả về nhân kiếp Việt tộc hiện nay phải có tuệ giác liêm chính để giải thích mà giải luận tâm bịnh, hiểm bịnh, ác bịnh của các lãnh đạo của ĐCSVN. Đây chính là nội lực của tuệ giác làm nên sung lực của đối luận để trực luận trước độc đảng đã sinh bầy đẻ đống ra một loạt: độc tài, độc trị, độc quyền, độc tôn… Tất cả các chuyên nghành của khoa học xã hội nhân văn phải thấy cho thấu hoạn bịnh của các lãnh đạo của ĐCSVN qua phương pháp luận phối hợp phân tích định lượng với phân tích định chất; nơi mà bịnh khuyết não của các lãnh đạo của ĐCSVN đã tạo ra khuyết lực ngay trong sinh lực của Việt tộc. Khi một dân tộc khoảng một trăm triệu dân lại để cho một đảng siết ngộp nhân kiếp của mình, với một đầu lãnh là Tổng bí thư được bao che bởi bọn đầu sỏ là Bộ Chính trị, thông đồng với bọn đầu nậu là Trung ương đảng, chúng độc quyền để lập chính quyền, độc trị để lập chính phủ. Gom gọn rồi cộng lại thì đám đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu không quá năm trăm tên đã làm đầu sòng cho khoảng bốn triệu đảng viên, mà có nhiều kẻ là đảng viên lại không được ngồi chung sòng, ăn cùng mâm,ngủ cùng chiếu với đám đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu này. Nếu cộng lại rồi nhân thêm với đám ký sinh cám hưởng qua đặc quyền, đặc ân, đặc lợi do bọn đầu lãnh, đầu sỏ, đầu nậu này ban bố, thì tri thức luận của phân tích định lượng sẽ dấn tới con số không vượt quá mười triệu trên một trăm triệu, chỉ mười phần trăm, nhưng hoạn cảnh hiện nay là thiểu số mười triệu đang âm binh hóa đa số chín chục triệu còn lại!

 

 

 

 

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

 

 

THẤU SUỐT NỖI ĐAU

 

Năm 2020, dài đăng đẳng, dài lê thê, dài tưởng chừng như không dứt, ai cũng mong năm này mau dứt để nhìn về những năm tới, để tái tạo lại được hy vọng, để cuộc đời đi về hướng ánh sáng. Tại sao vậy? Vì đầu năm 2020 này thì dịch bịnh cúm Tàu bùng lên rồi trùm phủ lên cả nước, giữa năm thì bão táp, cuối năm thì lụt lở, với bao đồng bào bị thiệt mạng. Tâm khảm người Việt trong và ngoài nước đau xót nhìn miền Trung với bao kiếp người lênh đênh trên nước như lê thê trên tử lộ. Nhìn để thấy, thấy để thấu suốt nỗi đau của một đất nước đang bị phanh thây, và trên đất nước đó thì thân thể cùng sinh mạng của đồng bào đã không bám được mảnh đất nơi mình đã chôn nhau cắt rốn. Sinh địa quê hương thủa nào giờ đây đã thành tử địa! với thiên nhiên bị nhân tai đánh tới gục bằng thủy điện, với môi trường bị rã tan vì tà quyền tham nhũng cấu kết với ma quyền tham tiền đã diệt coi như gần hết rừng nguyên sinh. Tiêu diệt rồi tận diệt, với cường độ vận chuyển lũ lượt đưa gỗ quý về biệt dinh, biệt phủ, biệt thự của tham quan, chính là những đám con nòi của chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay của ĐCSVN. Tất cả trong hoạn cảnh của ĐCSVN đã dùng tỷ tỷ liên hoan các buổi tụ họp để mừng chuẩn bị cho đại hội sắp tới ĐCSVN.

Miền Trung, từ năm này sang năm kia cam nhận giông bão … nhưng năm nay 2020 thì mật độ và cường độ của lụt lở lại mang quỷ dạng của tử thần đang trùm phủ lên miền Trung, rồi sẽ từ từ trùm tỏa lên cả đất nước Việt. Người Việt nghiến răng, bặm môi, điếng nhìn cái chết của môi trường, mà môi sinh chính là tiền đồ của tổ tiên đang bị bức tử, với tử thần chỉ nay mai thôi sẽ lần mò tới để đe dọa chính sự sống của dân tộc. Người dân biết từ lâu là chế độ bạo quyền độc đảng toàn trị đã áp đặt công an trị để cai trị dân tộc, chỉ để nuôi nấng cho béo bổ hai đứa con nòi của nó là: tà quyền tham nhũng trịma quyền tham tiền trị. Nhưng nhân cách của người Việt ngày ngày còn bị đám tuyên giáo thô tục hóa bằng tuyên truyền trị với ý đồ sâu độc của ngu dân trị, chúng gởi đám âm binh đại diện cho quỷ quyền hành pháp tới tuyên bố giữa đám tật quyền lập pháp ngay trong Quốc hội là lý do lụt lở năm 2020 là «do chất da cam của Mỹ» thời xưa, của thế kỷ qua, xảo ngôn đã thành điếm ngữ!

Đám lãnh đạo từ chính quyền tới chính phủ bằng độc đảng, chúng độc tài nhưng bất tài, chúng độc trị nhưng không hề biết quản trị, chúng độc quyền nhưng ngày ngày tham quyền để lạm quyền rồi lộng quyền, mà theo phân tâm học chính trị thì ngay trong cực quyền chúng đã lâm trọng bịnh cuồng quyền. Tại đây thì triết học đạo đứctâm lý học xã hội đã cùng nhau giải thích rằng đây chính là nội chất của bọn ăn tươi nuốt sống chính sự sống dân tộc,làbọn ăn dày nuốttrọn chính sức sống giống nòi, chuyện “cơm bữa” của chúng là ngày ngày ăn tàn phá sạch từ tài nguyên tới thiên nhiên của đất nước. Chúng bám quyền lực để hủ lậu hóa quyền lợi của chúng, vụ lợi để tư lợi, đặc quyền để đặc lợi, rồi tự đặc lợi để tự đặc ân, nên chúng dễ dàng thô tục hóa nhân dân bằng xảo ngữ của tuyên truyền trị, như từ lâu chúng đã tự điếm nhục hóa chính nhân cách của chúng. Vơ vét tiền bạc của dân tộc, nạo vét tài nguyên của đất nước, chưa hết chúng tàn phá đến thiên nhiên phải quỵ gục, chỉ để thỏa lòng tham không đáy là đã trộm, cắp, cướp, giật gỗ quý của rừng nguyên sinh với hoạn cớ là xây thủy điện.

Tự điếm nhục hóa nhân cách đã trở thành bản chất của cực quyền trị, tự điếm lận hóa nhân cách đã trở thành bản sắc cuồng quyền trị của chúng. Nếu mỗi người Việt tự đặt câu hỏi đâu là nguồn cơn sâu xa trong nỗi khổ niềm đau của Việt tộc hiện nay? Thì nội lực liên minh của học thuật, nghiên cứu, khảo sát, điều tra điền dã của các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn đã thẳng thắn mà thông báo cho chúng ta biết là nguồn cơn sâu xa tới từ bạo quyền độc đảng toàn trị, bạo hành công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị. Mỗi công dân Việt hãy bắt đầu tự nghĩ suy từ đây, mà thấy cho thấu chiều sâu, chiều rộng, chiều dày, chiều dài về nỗi đau sâu suốt của Việt tộc hiện nay, vì nhìn mà không thấy thì không khác gì đã bị lòa, thấy mà không thấu thì không khác gì đã bị lãng!

Xin kể một chuyện lạ trong (vô) tri thức của các quan chức ĐCSVN, đây cũng là câu chuyện kể về miền Trung trong ca khúc Nước non ngàn dặm ra đi của nhạc sĩ Phạm Duy, ca khúc này kể đoạn đường“đi làm dâu” từ miền Bắc vào miền Trung của Huyền Trân công chúa, đã thuận ý với cha là Trần Nhân Tông để thuận hôn với Chế Mân vì hòa bình của hai quốc gia, Chàm và Việt. Tôi chỉ trích ra chỉ một ca từ thôi trong tuyệt phẩm này: “Nước non ngàn dặm ra điDù đường thiên lý xa vời… cũng không dài bằng lòng thương mến người”. Tôi giới thiệu câu này để đề nghị là các quan chức ĐCSVN mà tôi đã được gặp, hãy cùng tôi bình luận để bình phẩm ca từ này. Tại sao phải bình phẩm ca từ này? Bình-phẩm-để-tiếp-nhận-nhân phẩm của Việt tộc trong lý luận đạo lý Việt “Dù đường thiên lý xa vời… cũng không dài bằng lòng thương mến người”, mà tụ điểm đạo đức Việt chính là: lòng thương mến người. Tôi rất ngạc nhiên không những về sự (vô) minh luận của các quan chức ĐCSVN khi họ tiếp nhận ca từ này, vì sao bao năm rồi tôi vẫn chưa thấy ai trong đám quan chức ĐCSVN bình-luận-đúng-để-bình-phẩm-trúng về ca từ này. Với tháng rộng năm dài, tôi đã phải kết luận là các quan chức ĐCSVN đã không biết hoặc không hiểu gì về nội lý đức hạnh của tổ tiên Việt đã làm nên nội công đạo đức của giống nòi Việt là: “Dù đường thiên lý xa vời… cũng không dài bằng lòng thương mến người”. Nếu không biết, không hiểu, không có lòng thương mến người thì làm sao thấu được nỗi khổ niềm đau của dân tộc! Đây chính là thảm bại vô cùng tận của các quan chức ĐCSVN, mà cũng chính là thảm họa vô cùng lớn của Việt tộc.

 

 

 

 

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Chuyên gia Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.


 

KHÔNG CÓ CHỮ: THƯƠNG!

 

Gởi các lãnh đạo ĐCSVN,

Từ tiềm thức tới ý thức, hình như các người không biết một chữ được Việt tộc trân quý, nâng niu, gìn giữ như để bảo bọc chính lương tri của mình, chuyện lạ là chữ này không hề có chỗ đứng ghế ngồi trong tuyên bố, văn bản, nghị quyết của các người, đó là chữ: thương! Đọc Việt sử thì biết là Việt tộc dắt díu nhau vượt thoát khổ ải, vượt thắng khổ nạn bằng chữ thương này, từ bầu với thương lấy bí cùng tới thương người như thể thương thân. Nội công của nhân nghĩa của Việt tộc là đây, bản lĩnh của nhân tâm là đây, tầm vóc của nhân từ là đây, vậy mà từ bao năm qua từ chữ nghĩa tới lời nói, chữ thương không hề hiện diện trong ngôn ngữ của các người, không hề hiện hữu trong chính sáchcủa các người.

Hãy bắt đầu bằng nghiên cứu của chính trị học tri thức về văn bản của chính sách, cùng lúc phối hợp với khảo sát của văn học nhận thức, thì thấy rõ ngay là không có một lãnh tụ nào của ĐCSVN có một tác phẩm về kiến thứctình thương; không có văn bản lý luận nào của các lãnh đạo hiện nay về tri thức tình thương. Ngược lại ngày ngày, người ta chỉ thấy các người nhìn nhân dân như các lực lượng thù địch, thậm chí các người còn lao lý hóa các đứa con tin yêu của Việt tộc biến các công dân tinh hoa này thành ra các tù nhân lương tâm. Vẫn chưa xong, các người biến dân lành thành dân đen trong nạn cảnh đầu đường xó chợ, dân tốt thành dân oan trong thảm cảnh màn trời chiếu đất, Việt Nam bây giờ thua kém các quốc gia láng giềng về mọi mặt nhưng là cường quốc về dân đen, dân oan.

Việt Nam hiện nay đã là cường quốc về địa ngục trần gian, nơi kiến thứctình thương bị siết cổ tới ngộp thở, nơi mà tri thứctình thương bị diệt ngay trong trứng nước, nơi mà nhận thứctình thương bị thanh trừng khi mới sơ sinh. Vì tất cả phạm trù kiến thứctình thương, tri thứctình thương, nhận thứctình thương không hề có ghế ngồi hoặc chỗ đứng trong bạo quyền công an trị, tà quyền tham quan trị, ma quyền tham nhũng trị, với bạo hànhthường nhật đã trở thành bạo động tuyệt đối, ngay trong nội bộ của các người là thanh trừng trị. Với phản xạ giết người diệt khẩuđã thành truyền thống của ĐCSVN, tất cả lãnh đạo từ Bộ Chính trị tới Trung ương đảng, từ bạo quyền hành pháp tới quỷ quyền tư pháp, kể cả tật quyền lập pháp, thì từ triết học đạo đứctới xã hội học nhận thức đều phải kết luận rằng tất cả số kiếp của các người cộng lại vẫn không vượt qua nổi một ca từ của Trịnh Công Sơn, khi nhạc sĩ này nói về ngôn ngữ của tình thương: “Miệng ngậm hạt từ tâm”.

Làm sao các người có được nhận thức tình thương khi cả gần một trăm triệu công dân Việt bị các người người mạt vận hóa, mà tộc kiếp thường nhật thấp xa so vớiđảng kiếp của các người. Khi các người đứng trên đất nước của tổ tiên Việt thì các người chỉ có phản ứng nạo vét tài nguyên; khi các người nắm được tiền bạc của dân tộc trong tay thì các người chỉ có phản xạ vơ vét. Vẫn chưa thỏa dạ các người, nguyên khí của quốc gia là thanh niên, thì trong chính sách xuất khẩu lao động của các người trai phải thành lao nô, gái phải là nô tỳ cho các quốc gia láng giềng. Các người đang điếm nhục hóa cả giống nòi Việt, chỉ vì chữ thương đã bị thanh toán trong não bộ, đã bị thanh trừng trong não trạng của các người.

Đây là thất bại nội tâm làm nên thảm bại nội não của các người, nên từ khi các người cướp được chính quyền, ngày ngày các người cai trị công dân Việt bằng công an trị, trừng trị các đứa con tin yêu của Việt tộc đã không đồng ý với các ngườibằng lao lý trị,gần như tất cả dân tộc đều bị xem như kẻ thù không đội trời chung với các người. Các người đã đứng ngoài, đứng xa, mà còn đứng chặn giòng sinh mệnh của Việt tộc, vì nơi các người đang đứng trống nhân đạo, rỗng nhân từ, vắng nhân tâm. Các người đã mang một nội thương mà các người không biết, bi kịch của nội thương này đã là một ung thư đại tràng ngay trong não bộ của các người, với não trạng biệt tăm biệt tích tìnhthương.

Các người đi qua nhân sinh của dân tộc, đi ngang nhân kiếp của giống nòi, mà các người vẫn không hề hiểu giá trị cốt lõi của cuộc sống tích tụ chung quanh chữ thương. Bi kịch vô minh sẽ làm nên thảm kịch vô giác của các người, vì tới ngày các người sắp phải vào quan tài, sắp phải nhập mộ phần của chính các người, mà các người vẫn không hề hiểu gì về: chiều sâu, chiều rộng, chiều dài, chiều cao của một giá trị tâm linh, nơi nhân tâm làm nên nhân vị, nơi nhân từ làm nên nhân bản, nơi nhân nghĩa làm nên nhân tri, tất cả đều quy tụ chung quanh chỉ một chữ: thương!

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Chuyên gia Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

CÁC LÃNH ĐẠO CỦA ĐCSVN HIỆN NAY: ĐỪNG LÃNH ĐẠO NỮA!

 

Thường dân chỉ muốn sống vớì cơm no áo ấm của thường dân, còn lãnh đạo phải sống và làm việc vì dân tộc, vì giống nòi, vì đất nước. Các lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN- Đảng cộng sản Việt Nam chỉ muốn sống vì tư lợi của họ, lấy tham quyền để nuôi lạm quyền, lấy tham quan để nuôi hoạn quan, thì họ không phải là lãnh đạo của dân tộc. Đám này chắc chắn không phải là những chính khách có tuệ giác trong chính giới có trí tuệ; mà tuệ giác và trí tuệ đều có một nền chung là lý trí của đạo đức, có tổ là đạo lý hay, đẹp, tốt, lành; có tông là luân lý để định vị cho trách nhiệm vì tổ quốc và bổn phận vì đồng bào. Ngay trên thượng nguồn của định đề chính trị: chính khách có tuệ giác trong chính giới có trí tuệ, thì vấn đề trình độ của lý trí làm nên mật độ của tuệ giác, tạo ra cường độ của trí tuệ. Trong không gian tri thức của đạo đức, đạo lý, luân lý thì không một lãnh đạo nào của ĐCSVN, từ Bộ Chính trị xuống Trung ương đảng, từ chính quyền tới chính phủ không một cá nhân lãnh đạo nào hiện nay có đủ tiêu chuẩn để lãnh đạo.

Nhận định chung của chính trị học tri thứctriết học chính trị phân tích thì rất rõ là đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN, không có một cá nhân lãnh đạo nào tương đối (chớ chưa cần đòi hỏi tuyệt đối) cóchiều cao của trình độ lý trí, có chiều dày của mật độ tuệ giác, có chiều rộng của cường độ trí tuệ. Nhận định chung này không hề là chuyện trừu tượng của một lý thuyết chính trị mơ hồ, mà cả ba: chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ, chính là ba chỉ báo của xã hội học kiến thức khi điều tra, khảo sát, nghiên cứu về các lực lượng và các cá nhân lãnh đạo trong bối cảnh toàn cầu hóa của thế kỷ này. Chính ba chỉ báo: chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ là nội dung của ba nội công của ý thứcchính trị làm nên ba bản lĩnh của nhận thứcchính trị, nếu không có ba loại vốn chính trị này thì sẽ không kham được ba đòi hỏi: phát triển cho đất nước, tiến bộ cho dân tộc, văn minh cho giống nòi. Ba chỉ báo này đã là sự thật hiển nhiên của các quốc gia láng giềng cùng chung nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, trong đó có cả Sinpapour, và ta không quên Trung Quốc. Chính tại đây, từ chuyên gia tới thường dân, ai cũng thấy-và-thấu là đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN không có nội công của chính khách, không có bản lĩnh của chính giới, không có tầm vóc của chính trường như đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSTQ-Đảng cộng sản Trung Quốc.

Cũng từ chuyên gia quốc tế về tình hình hiện nay của Việt Nam cho tới thường dân Việt đang ngày ngày bị cai trị bởi dưới bạo quyền độc đảng toàn trị của ĐCSVN bằng công an trị, thì tất cả đều thấy tận gốc, thấu tận rễ là các lãnh đạo chỉ biết loay hoay chung quanh các đứa con âm binh do chính nó sinh ra: tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị… Đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN đang minh chứng rồi xác chứng một luận thuyết của xã hội học tái sản xuất bất chính: con tham quan thì được tham quan, cháu tham quyền thì được tham quyền, chắt của tham tiền thì được tham tiền. Nơi mà cái độc tài luôn sinh đôi ra độc tài và bất tài; nơi mà cái độc trị luôn sinh đôi ra độc trị và vô minh trong quản trị; nơi mà độc quyền luôn sinh đôi ra cực quyền và cuồng quyền.Khi ta vân dụng khoa học tri thức mà tên gọi quen thuộc là khoa học não bộđể song hành cùng tâm lý học xã hội, thì ta phải đi thẳng tới kết luận là đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN chỉ là ký sinh trùng của quyền lực, đã tà hóa quyền lực vì quyền lợi của chúng bằng tà lộ của lòng tham không đáy. Từ đây, ký sinh trùng của quyền lực sẽ sinh sôi nẩy nở ra vô sốký sinh thể củaquyền lợi là đặc quyền, đặc lợi, đặc ân, dùng phản xạ vụ lợi để củng cố phản ứng tư lợi, vơ vét tiền bạc của đồng bào, nạo vét tài nguyên của đất nước.

Trong biệt dinh của các lãnh tụ, trong biệt phủcủa các lãnh đạo ĐCSVN thì chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ không hề có ghế ngồi; tại đây thì nội công của ý thứcchính trịbản lĩnh của nhận thứcchính trị, không hề có chỗ đứng! Nên đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN, vẫn thường mất ăn mất ngủ với ba định đề của cộng hòa (tự do, công bằng, bác ái) là đại lộ của dân chủ trong đa nguyênnhân quyền. Chưa hết, đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN cũng mất ăn mất ngủ với các chủ thể mang nội công, bản lĩnh, tầm vóc của minh quân, minh vương, minh chủ, minh chúa được trợ lực bởi các minh sư biết nhìn xa trông rộng với chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ.

Nếu lãnh đạo chính trị với bao bất an mất ăn mất ngủ, thì đừng lãnh đạo nữa! 

Đám lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN không có nội công chính khách, không có bản lĩnh chính giới, không có tầm vóc chính trường, vì đám này không hề có chiều cao của trình độ lý trí, chiều dày của mật độ tuệ giác, chiều rộng của cường độ trí tuệ;họ rỗng nội công của ý thứcchính trị, trống bản lĩnh của nhận thứcchính trị,đây chính là bi hài kịch của ĐCSVN, mà cũng là một thảm kịch cho Việt tộc.

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

KHI MỘT BẠO QUYỀN ĐỘC ĐẢNG TOÀN TRỊ TỰ NGHĨ SUY VỀ CÁI CHẾT CỦA NÓ

 

Khi một bạo quyền độc đảng toàn trị tự nghĩ suy về cái chết của nó, nó luôn đặt các giả thuyết làcác lãnh tụ của nó có ngày phải chết, các lãnh đạo của nó có ngày phải chết, tức là đầu sỏ tới đầu nậu của nó đều phải chết, nhưng nó ít khi tự suy nghĩ để tự suy luận là chế độ độc đảng toàn trị của nó cũng có ngày cũng phải chết, vĩnh viển ra đi, một đi không trở lại! Một bạo quyền độc đảng toàn trị không đủ tuệ giác để suy nghĩ là nó đã chết từ lâu ngay trong lòng dân, ngay trong não bộ của mỗi công dân khi nó đang cầm quyền, khi nó luôn dùng bạo quyền để đàn áp nhân dân. Một bạo quyền khi nó sử dụng bạo lực với dân tộc, khi nó vận dụng bạo động với xã hội dân sự, khi nó tận dụng bạo hành để truy cùng diệt tận các đứa con tin yêu của Việt tộc, mà nó đã lao lý hóa, đã biến các đứa con này thành các tù nhân lương tâm thì chính nó đang viết giấy khai tử của nó.

Bạo quyền độc đảng toàn trị hiện nay đã bắt đầu tự mở tử lộ cho chính nó, mà cuối tử lộ này không có một chân trời nào sáng sủa cả, chỉ có mộ huyệt tối đen của nó; một là do nó tự đào trong tâm khảm dân tộc, hai là do chính dân tộc lẳng lặng đào để có dịp là đưa nó ta khỏi nhân kiếp của Việt tộc. Vì Việt tộc đủ tâm và đủ tầm để xua nó vào âm giới, nơi dành riêng cho âm binh phản dân hại nước; đây không hề là câu chuyện mơ hồ trong tưởng tượng, hoặc trừu tượng qua ảo giác; mà đây là tổng kết tri thức luận tới từ liên minh giữa chính trị học kiến thức, nhân học ý thức, triết học nhận thức và xã hội học trí thức.

Hãy trở về với hiện tình của đất nước hiện nay với giòng sinh mệnh của Việt tộc đang nằm trong tay đám lãnh đạo vừa là bạo quyền độc đảng, vừa là tà quyền tham nhũng, nên chúng đã có mặt cùng lúc trên hai tử lộ do chúng tạo ra. Đám lãnh đạo này lại vừa là ma quyền tham tiền, vừa là quỷ quyền tham quan, thì chúng cũng đã tạo ra hai tử lộ nữa. Vẩn chưa hết, đám lảnh đạo này vừa là cực quyền công an trị, vừa là cuồng quyền ngu dân trị, thì cũng chúng đã tự chế ra hai tử lộ khác nữa, vô tình chặn tuổi đời, hủy tuổi thọ của chính chúng. Liên kết tri thức luận giữa chính trị học kiến thức, nhân học ý thức, triết học nhận thức và xã hội học trí thức đã phân tích để giải thích, cùng lúc căn dặn ta đừng quên là ngay trong các tử lộ này thì có đầy rẫy các kẻ miệng gọi nhau là đồng chí, nhưng thực chất là những sát nhân sẵn sàng sát thủ.

Với bạo quyền độc đảng toàn trị, thì moị quan hệ quyền lực đều bị âm binh hóa: quyền lực chỉ vì quyền lợi, có đặc quyền để có đặc lợi, mà đặc lợi chỉ vì tư lợi; với lòng tham không đáy chúng luôn tìm thêm đặc ân, luôn tham quyền để luôn lạm quyền. Đạo lý tổ tiên không có ghế ngồi trong tính toán của chúng, đạo đức dân tộc không có chổ đứng trong toan tính của chúng, nên luân lý vì giống nòi, vì các thế hệ mai hậu không có chổ dựa trước các ý đồ mà chúng toa rập vơ vét tiền dân tộc, nạo vét tài nguyên đất nước. Đang sống trên đất nước Việt, nhưng tiền bạc của chúng đã chuyển qua phương Tây, gia đình và con cháu của chúng đã cặp bến phương tây này, và trong túi của chúng đã có thẻ xanh, hay quốc tịch ngoại. Liên minh tri thức luận giữa chính trị học kiến thức, nhân học ý thức, triết học nhận thức và xã hội học trí thức giờ thì đã rỏ rang từ giải luận tới diễn luận: tiền bạc rồi gia đình và con cháu cùng thẻ xanh, hoặc quốc tịch ngoại chính là các chỉ báo để thấy là chúng cũng đã lén lút trong điếm nhục để nghĩ suy về cái chết của chúng.

Đám lảnh đạo -vừa đầu sỏ, vừa đầu nậu- trong bạo quyền độc đảng toàn trị này, thì ngày đêm mang số phần âm binh, vừa chia chác, vừa đấu đá nhau, lấy phản ứng thanh toán nhau làm phản xạ thanh trừng nhau, thắng làm âm tướng trong âm giới, thua làm oan hồn chốn âm ty. Đám lãnh đạo này với tà kiếp thâm, độc, ác, hiểm giữa nhân gian, đang mang âm phận xấu, tồi, tục, dở giữa nhân thế, nhưng chúng luôn tự mãn về đặc quyền, đặc lợi, đặc ân trong bộ máy bạo quyền độc đảng, tà quyền tham nhũng, ma quyền tham tiền, quỷ quyền tham quan, cực quyền công an trị, cuồng quyền ngu dân trị, nên liên hiệp tri thức luận giữa chính trị học kiến thức, nhân học ý thức, triết học nhận thức và xã hội học trí thức chóng chầy gì cũng phải hướng tới đạo lý tổ tiên Việt đã làm nên đạo đức dân tộc Việt đã xa lánh chúng khi  đã đặt tên chúng là: ma trơi ác quyền, ma xó bạo quyền, ma bùn tà quyền.

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

 

Ý THỨC DỰA Ý NGUYỆN, NƯƠNG Ý NGUYỀN

 

Ngoài chuyện cơm ăn áo mặc, Việt tộc còn có một chuyện nữa cao, rộng, sâu, xa hơn, đó chính là trong ấm ngoại êm, đây thử thách vừa tức thời, vừa là đường dài của Việt tộc! Vì xã hội Việt hiện nay thì bên trong không hề ấm, với độc đảng toàn trị đã sinh ra các đứa con của nó, tà tông trong dị thống, thuộc loài âm binh đó là bạo quyềncông an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị. Vì đất nước Việt hiện nay thì bên ngoài không hề êm, vì Tàu tặc đang xâm chiếm đất, biển, đảo của ta, trước hành vi tự điếm nhục hóa của các lãnh đạo ĐCSVN là hèn với giặc, ác với dân. Trước thử thách hiện nay, nếu Việt tộc không biết vượt thắng nội xâm để vượt thoát ngoại xâm, thì thử thách này sẽ là thảm họa cho đất nước Việt, sẽ là thảm cảnh cho dân tộc Việt, thảm nạn cho giống nòi Việt.

Những kẻ lảnh đạo thực tài thì phải tỉnh táo để nhìn ra nỗi bất hạnh của đồng bào, phải thấy cho thấu nổi bất hạnh này để vượt thoát nó bằng lý trí của nhân trí, vượt thắng nó bằng trí tuệ của nhân tri. Những kẻ lảnh đạo thực tài còn phải sáng suốt ngay trong phương pháp luận để tiếp nhận lẽ phải đã có trong tận cùng nỗi tuyệt vọng của dân tộc đang phải ẩn thân trong chế độ nô lệ mới, trai thì làm lao nô, gái thì làm nô tỳ cho các quốc gia láng giềng, từ khi giòng sinh mệnh của Việt tộc đã nằm trong tay của bạo quyềnđộc đảng toàn trị. Những kẻ lảnh đạo thực tài trong tương lai phải có tuệ giác của lương tri, để khởi hành từ nỗi thất vọng tới tuyệt vọng của dân tộc, từ đó làm sáng lên nhân lý Việt (thương người như thể thương thân) đã sẳn có trong nhân tính Việt (một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ).

Bản lĩnh của lãnh đạo chính trị có ngay trong nội công của kẻ lảnh đạo biết chuyển hóa nghèo nàn lac hậu thành ra trong ấm ngoại êm. Tầm vóc của lãnh đạo chính trị có ngay trong vai vóc của kẻ lãnh đạo biết chuyển đổi chuyện đầu tắt mặt tốichén cơm manh áo của dân tộc thành hiện thực ấm no hạnh phúc. Nội công tính toán chính trị tạo bản lĩnh toan tính trong chính sách, làm nên vai vóc của quyết sách, tạo ra tầm vóc của quốc sách. Tất cả những lãnh đạo hiện nay của ĐCSVN, không nội công, chẳng bản lĩnh, trống vai vóc, vắng tầm vóc, vì họ không hề là chính khách có tri thức trong chính trường có trí thức. Họ chỉ là đám ăn tàn phá hại, nên tà kiếp của họ chỉ là loại ký sinh thể của gà què ăn quẩn cối xay, họ lấy phản xạ khôn nhà dại chợ để chế biến ra phản ứng âm binh của họ là điểu nhà điếm chợ.

Trong tương lai có văn minh của dân chủ, có văn hiến của nhân quyền cho Việt tộc, thì các chính khách liêm chính trong một chính giới có liêm sỉ nếu muốn lãnh đạo một dân tộc, thì phải biết lãnh đạo là lãnh nhận các đạo lý của tổ tiên, để lãnh trọn các đạo đức của dân tộc, để tự giáo dục chính mình trong liêm khiết. Từ đó, sử dụng các thành quả tích cực nhất của quá trình tự giáo dục này mà giáo dưỡng gióng nòi, cụ thể là tái tạo lại được giáo khoa, giáo trình, giáo án để giáo huấn đạo lý và luân lý cho các thế hệ mai hậu. Các chính khách liêm chính trong một chính giới có liêm sĩ còn phải biết tạo dựng được một không gian kiến thức được tổ chức thành hệ thống tri thức, nơi mà trí thức biết trợ lực cho ý thức, biết trợ duyên cho nhận thức. Từ đó, chế tác ra văn minh dân chủ làm cốt cách cho văn hiến nhân quyền, để chính sách trở thành quốc sách, để dân tộc có chổ dựa, để giống nòi có chỗ nương.

Ý thức của các lãnh đạo có nội công của thông minh, có bản lĩnh của thông thái, luôn có ý nguyện muốn trở thành tác giả bằng các chính sách phát triển đất nước, qua các quyết sách tiến bộ vì dân tộc, để xây dựng các quốc sách văn minh cho giống nòi. Nên các lảnh đạo minh trí này luôn mang ý nguyền họ phải là tác nhân tạo ra quốc sách như tác phẩm của họ ngay trong cuộc đời lảnh đạo chính trị, biết làm nên sự nghiệp chính trị bằng chính tri của họ. Nơi mà cuộc sống lảnh đạo và sự nghiệp lảnh đạo chỉ là một, từ minh trí tới minh luận. Nơi mà chính khách phải là tác giả sáng tạo ra quốc sách, biến quyết đoán riêng thành tác phẩm chung của dân tộc, vì đồng bào, vì giống nòi, vì đất nước.

 

 

 

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

 

SỐNG ĐÚNG NHÂN ĐẠO, SỐNG TRÚNG NHÂN PHẨM

 

Muốn sống đúng trong cuộc đời, thì mỗi ngày trong cuộc đời đó phải là một cuộc sống trúng với nhân phẩm của đồng loại để xây dựng cho chính nhân tri của mình, mà cuộc đời đó phải lành với tha nhân để dựng xây cho chính nhân trí đẹp của mình. Đây là một thử thách thường trực và sắc nhọn trong cuộc sống hằng ngày cho mọi công dân Việt trên đất nước Việt hiện nay. Vì độc đảng toàn trị vận dụng công an trị để đàn áp, khống chế, rồi lao lý hóa các đứa con tin yêu của Việt tộc giờ đã là các tù nhân lương tâm. Vì độc đảng toàn trị vận dụng tà quyền tham nhũng trị của chúng để ngày đêm vơ vét của cải, tiền tài của dân tộc. Vì độc đảng toàn trị tận dụng ma quyền tham tiền trị của chúng để sớm hôm nạo vét tài nguyên, thiên nhiên của đất nước.

Độc đảng toàn trị sinh ra các đứa con thuộc nòi âm binh của nó là: bạo quyềncông an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, biến dân lành thành dân đen, biến dân tốt thành dân oan, đây là những kẻ ác ngày ngày tạo ra cái ác. Phân tâm học chính trịtâm lý học tri thức rất rành về bản lai diện mục của những kẻ ác này. Chúng sẳn sàng uống độc dược của cái ác trước khi sử dụng cái ác để triệt đồng bào, để diệt đồng loại, để giết tha nhân. Vì cái ác luôn muốn thanh toán lý trí của lương thiện, vì cái ác luôn muốn thanh trừng trí tuệcủa lương tâm, vì cái ác luôn mang ý đồ thâm, độc, hiểm của nó để hủy ngay trong trứng nước sự xuất hiện của tuệ giác củalương tri luôn biết bảo vệ nhân phẩm.

Tội vượt xa lỗi, lỗi thì con người có thể vận dụng tình thương để phân giải, còn lỗi thì con người phải tận dụng vừa đạo lý, vừa pháp lý để nghiêm trị nó. Để ngăn những kẻ ác gây ra tội ác không được truy diệt dân tộc, không được hủy hoại giống nòi, không được tàn phá đất nước nữa! Khi tôi nhìn dân lành thành dân đen trong họa cảnh đầu đường xó chợ, tôi đã rơi nước mắt; khi tôi thấy dân tốt thành dân oan trong nạn cảnh màn trời chiếc đất, tôi đã ôm mặt khóc. Nên tôi không thể nhìn-mà-không-thấy các thủ phạm của bạo quyền độc đảng toàn trị gây ra họa cảnh này; nên tôi không thể thấy-mà-không-thấu các tội phạm của tà quyền tham nhũng trị gây ra thảm cảnh này.

Những người thực tài trong liêm khiết muốn lãnh đạo dân tộc không thể lý luận rằng khó khăn trong thực tiễn ngăn chặn sự quyết đoán liêm sĩ trong hành động chính trị, mà ngược lại chính sự thiếu vắng quyết tâm để tạo quốc sách sáng suốt đã sinh ra mọi khó khăn trong các chính sách liêm chính. Đám chính khách dẻo mồm để lươn lẹo“dạy đời” rằng chính trị là nghệ thuật của thỏa hiệp, để cuối cùng là chính quyền thì“ba phải”,song lứa với các chính sách “vô thưởng, vô phạt”; chúng ta nên thành thật trong thẳng thắn mà khuyên đám chính khách này nên làm các nghành nghề khác mà làm chớ đừng làm chính trị nữa! Nói gần nói xa không qua nói thật là bi kịch của dân tộc hiện nay là các lảnh đạo của ĐCSVN đang cầm quyền rồi cầm luôn giòng sinh mệnh của Việt tộc, họ không hề là chính khách vì họ không có tri thức của chính khách. Họ không có trí thức của chính giới mà ta thấy hằng ngày trong các quốc gia sống đúng với nhân đạo của dân chủ, sống trúng với nhân phẩm của nhân quyền, thì các lảnh đạo của ĐCSVN làm sao chế tác ra được các chính sách đúng nhân đạo, các quốc sách trúng nhân phẩm.

Muốn vượt thoát mọi nạn cảnh của đất nước Việt để vượt thắng mọi thảm cảnh của dân tộc Việt hiện nay trong lúc chờ đợi dân chủ để tiếp đón nhân quyền, thì Việt tộc có thể trông chờ vào các chính khách, vừa dũng trong quả cảm, vừa minhtrong thông thái, mà thủa xưa tổ tiên Việt gọi là minh quân, minh vương, minh chủ, mỉnh chúa, mà ta đã thấy trong lịch sử của các láng giềng cùng nôi tam giáo đồng nguyên với Việt Nam là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapour. Đây là nhưng kẻ lãnh đạo tỉnh táo trong sáng suốt có quyết tâm nhân đạo vì dân tộc, có quyết sách nhân phẩm vì giống nòi, làm nên quốc sách nhân trí vì đất nước. Họ làm chính trị với chính tri đúng, với chính trí trúng -đúng trước lẻ phải, trúng trước sự thật-, họ thấy trong tỉnh táo của nhìn xa trông rộng, họ thấy trong sáng suốt của người khôn chưa đắn đã đo/ Chưa ra tới biển đã dò nông sâu!

 

Lê Hữu Khóa

Giáo sư Đại học* Giám đốc Ban Cao học châu Á * Giám đốc biên tập Anthropol-Asie * Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á * Cố vấn Chương trình chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa Paris * Cố vấn thẩm định giáo dục và nghiên cứu đại học Bourgone-Franche-Comté * Biên tập viên tập chí Hommes&Migrations * Thành viên Hội đồng khoa học bảo tàng lịch sử nhập cư * Hội viên danh dự nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.

NHÂN PHẨM BỒNG HẠNH PHÚC

 

Sống trong hy vọng trước hết là ý nguyện được buông bỏ sự tuyệt vọng trong hiện tại! Nhưng trước hết con người phải biết đi về phía ánh sáng của lẽ phải, nghĩa là con người biết nhận diện đúng sự thật, biết thấy cho thấu chân lý, để chuẩn bị tiếp nhận hy vọng với nhân cách đẹp trong một nhân gian lành. Bi kịch của Việt tộc hiện nay thì hoàn toàn ngược lại với hy vọng phát triển đất nước Việt làm nên kỳ vọng tiến bộ cho dân tộc Việt, từ đó đặt giống nòi Việt vào ước vọng của văn minh, vì bạo quyền độc đảng toàn trị đang vùi hy vọng phát triển cho đất nước, đang lấp kỳ vọng tiến bộ cho dân tộc, đang xóa hoài vọng văn minh cho giống nòi. Cụ thể là bạo quyền độc đảng toàn trị đã sinh ra các âm binh của nó là bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị… ngày ngày vùi chôn chính sức sống của dân tộc,vụi lấp chính chất sống của giống nòi.

Lối ra sẽ làm nên lối thoát của Việt tộc là thay đổi chế độ, bứng độc đảng để lập lại các giá trị của cộng hòatự do, công bằng, bác ái; tẩy toàn trị để lập ra dân chủ, dùng đa nguyên biết song hành cùng đa tài, đa trí, đa dũng, đa hiệu, đa năng để ngày ngày bảo vệ cho bằng được nhân quyền luôn biết nâng niu hy vọng phát triển cho đất nước, kỳ vọng tiến bộ cho dân tộc, ước vọng văn minh cho giống nòi. Vẫn chưa xong, dân tộc này phải tìm cho ra những kẻ lãnh đạo có thực tài trong liêm chính, sẽ là những kẻ được nhân dân cảm phục, rồi được giống nòi cảm ân, mặc dù kẻ lãnh đạo tài ba này cũng sẽ là nguồn cơn của các ghen tị trong chính giới, tới từ các tị hiềm trong não trạng của các chính khách bất tài. Nhưng sự cảm phục của nhân dân sẽ đi trên lưng các ghen tị, đi trên vai các tị hiềm, vì kẻ lãnh đạo có thực tài mà liêm chính thì đi trên đầu kẻ lãnh đạo bất tài.

Những kẻ lãnh đạo có thực tài mà liêm chính không bao giờ bị nhân dân khinh miệt, nếu họ không có các hành vi xấu, tồi, tục, dở. Những kẻ lãnh đạo có thực tài mà liêm chính không bao giờ bị đồng bào miệt thị, nếu họ không đày đọa đồng bào của họ bằng các chính sách thâm, độc, ác, hiểm vì tư lợi của độc đảng. Những kẻ lãnh đạo có thực tài lại liêm chính thì không bao giờ bị bài thị bởi các tiêu chuẩn của văn minh, các tiêu chí của văn hiến đã là gốc, rễ, cội, nguồn của dân chủ vì nhân quyền. Vì những kẻ lãnh đạo có thực tài lại liêm chính này đủ lương thiện để đối kháng lại quá trình ô uế hóa nhân tri của tổ tiên hiện nay; vì họ có lương tâm đủ lập được đối trọng chống lại quá trình ô nhiễm hóa nhân trí của dân tộc hiện nay, vì họ có lương tri đủ lập được đối luận chống lại quá trình điếm lận hóa nhân kiếp của giống nòi hiện nay.

Mỗi công dân có thể thấy thỏa mãn về các tiện nghi vật chất mới tới để phục vụ cho ấm no của mình, nhưng những kẻ lãnh đạo có thực tài lại liêm chính chỉ thấy thỏa lòng khi tạo được các điều kiện mới để phục vụ cho đất nước thêm phát triển, dân tộc thêm tiến bộ, giống nòi thêm văn minh. Mỗi công dân được quyền chỉ đi tìm sự đầy đủ về quyền lợi cho mình, nhưng những kẻ lãnh đạo có thực tài lại liêm chính phải đi xa hơn nữa, cụ thể đi tìm nhân vị của các công dân của mình trong nhân quyền vì dân tộc, phải đi rộng hơn nữa là tìm nhân bản của các công dân của mình trong nhân tri vì giống nòi; nơi đây có nhân trí của đồng bào biết chung để chia vì biết chia để chung, biết chung sống với nhau trong nhân nghĩa.

Bi nạn tới từ chế độ độc đảng toàn trị hiện nay đang là họa cảnh đục nước béo cò của tà quyền tham nhũng trịđã làm nền cho hoạn cảnh thừa gió bẻ măng của ma quyền tham tiền trị, với các âm binh do chính nó sinh ra là bạo quyền công an trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị… Chúng lạm quyền để cực quyền rồi cuồng quyền trong mê sảng là chế độ của chúng sẽ sống bền với tuổi thọ cao. Nhưng một ngày kia, bỗng chốc chúng chết tức tưởi trước cơn sóng thần của cuộc đấu tranh của cả dân tộc vì tự do; chế độ chế độ độc đảng toàn trịluôn mê hảo muốn sống hoài, bỗng nhiên tắt thở rồi chết đứng trước dòng thác dân chủ của cả dân tộc đã nhận ra nhân quyền của mình. Một chế độ mê hoạn muốn sống mãi theo tà kiếp của nó, nhưng chớp nhoáng -trong chớp mắt- nó chết bất đắc kỳ tử, chỉ vì khi nó đang sống nó chỉ biết chăm lo quyền lực vì quyền lợi của nó, vì khi nó còn sống nó chỉ biết chăm sóc đặc quyền vì đặc lợi của nó. Đây chính là sức hội tụ của học thuật từ phân tich tới giải thích của chính trị học tri thức và xã hội học kiến thức.

Ngược lại, những kẻ lãnh đạo có thực tài lại liêm chính biết hơn ai hết là trên thượng nguồn của hành động chính trịhoài bão chính trị nơi mà dựng xây hạnh phúc cho đồng bào và xây dựng nhân phẩm cho giống nòi chỉ là một chuyện chỉ có một rễ, một cội, một gốc, một nguồn. Những kẻ lãnh đạo có thực tài lại liêm chính, họ khác ngược với bạo quyền độc đảng toàn trị cứ mê liệt với âm binh trong âm giới là chúng là tà quyền tham nhũng trị,ma quyền tham tiền trị,quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị tự nghĩ để tự suy là chúng không bao giờ bị diệt. Nên chúng không bao giờ tự phân để tự giải là chúng phải chết, sẽ chết, vì vô tri trong vô minh nên ngay khi chúng tự chế để tự diễn về sự bất tử của nó, thì đó chính là giây phút khởi mào cho quá trình khai tử của chính chúng.

 

Lê Hữu Khóa

TAI ƯƠNG CHÍNH SÁCH, TAI ÁCH CHÍNH QUYỀN

 Một đất nước Việt tàn tạ hiện nay với bao tai ương từ giao thông tới y tế, từ đô thị tới nông thôn, từ giáo dục tới đạo đức, từ con người tới môi trường, … kể ra không hết. Toàn bộ một xã hội vật vờ với đời sống ngày ngày bất an trong hoạn cảnh thù trong giặc ngoài, tất cả tới từ các chính sách sai lầm, sai từ thượng nguồn tới hạ nguồn, sai từ lý luận tới thực thi, đây là định đề của phạm trù tai ương chính sách. Mà chính sách mang bản lai diện mục của chính quyền với các quốc sách tật nguyền của đám lảnh đạo ĐCSVN, các chính sách hiện nay như một thân thể mang đầy những khuyết tật, tới từ bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị… hoạn cảnh tạo ra họa cảnh: công an trị chung lưng đấu cật với côn đồ, lưu manh, du đảng tất cả âm binh này đang lúc nhúc trong âm giới của xã hội đen ; họa cảnh tạo ra nạn cảnh với các lãnh đạo mua quyền bán chức, vì tư lợi, có kẻ sẵn sàng phản nước hại dân, đây là định đề của phạm trù tai ách chính quyền.

Câu chuyện chính vẫn là câu chuyện có gốc, rễ, cội, nguồn tới từ lai lịch vô minh và lý lịch vô tri của giới lãnh đạo chính trị của ĐCSVN, mà Việt tộc hiện nay đang phải chịu thảm cảnh vô phúc trong tuyệt lộ với một thể chế độc đảng toàn trị. Nguyên nhân cốt lõi này thì hai bộ phận học thuật là khoa học nhân văn và khoa học xã hội đã nhận ra từ lâu; với khoa học nhân văn từ triết học tới chính trị học chủ trương nghiên cứu qua phân tích văn bản; và khoa học xã hội từ nhân học tới xã hội học chủ trương nghiên cứu bằng điều tra thực địa. Cả hai bộ phận học thuật nhân văn và xã hội này đã giải thích để giải luận là tai ương chính sách tới từ các cá nhân lãnh đạo sự vận hành các chính sách; và tai ách chính quyền tới từ các cá nhân chỉ đạo các định hướng cho bộ máy chính phủ. Như vậy, chiều sâu của câu chuyện nạn kiếp của Việt tộc hiện nay chỉ là câu chuyện của ĐCSVN nắm độc đảng để độc trị nhưng không biết quản trị để phát triển đất nước; độc đảng để độc tài nhưng lại bất tài vì không biết đưa dân tộc về hướng tiến bộ. Độc đảng để độc quyền nhưng chỉ vận dụng bạo quyền công an trị, tà quyền tham nhũng trị, ma quyền tham tiền trị, quỷ quyền tuyên truyền trị, âm quyền ngu dân trị… thì không sao đưa được giống nòi Việt về phía chân trời của văn minh.

Muốn làm kẻ lãnh đạo liêm chính thì phải xóa cho bằng được tai ương chính sách, thì phải diệt cho bằng được tai ách chính quyền, với sự sáng suốt trong quyết tâm, sự tỉnh táo trong quyết đoán, mà cụ thể là đặt cuộc sống dân tộc vào trung tâm của mọi quyết sách. Nơi mà nội dung của các quyết sách không phải là tuổi thọ của một thể chế độc đảng toàn trị đang là cực hình cho cả một dân tộc, với bất công xã hội tới từ sự bất chính của chính quyền. Ngược lại thì thượng sách của tri thức chính trị là sự thông minh biết sử dụng tinh chất nhân phẩm của tổ tiên để nhận ra đường đi nẻo về ngay trong nhân vị của dân tộc; rồi vận dụng tinh hoa nhân tri của dân tộc để nhận ra đường đi nước bước vì nhân bản của giống nòi. Như vậy, muốn làm kẻ lãnh đạo liêm chính luôn tỉnh táođểsáng suốt thì phải biết tận dụng tinh nhuệ nhân nghĩa của Việt tộc để nhận ra đường ra lối vào của nhân đạo của kẻ lảnh đạo biết vì nước, vì dân.

Muốn làm kẻ lãnh đạo liêm chính luôn tỉnh táo để sáng suốt trước hết phải biết Việt tộc là ai? Cụ thể là dân tộc nào? Đó là một dũng tộc biết thắng mọi ngoại xâm để bảo vệ cho bằng được cơ đồ của tổ tiên vì giống nòi; dũng tộc này còn là một minh tộc biết lấy ít thắng nhiều, biết lấy yếu thắng mạnh. Việt sử chính là sử tính của Việt tộc nơi mà bản sắc Việt là bản sắc luôn bảo vệ cho bằng được nhân phẩm Việt, biết bảo vệ độc lập cho đất nước như biết bảo vệ chính nhân cách Việt của mình. Nếu Việt tộc vừa là dũng tộc, vừa là minh tộc, thì chính trị học tri thức và xã hội học kiến thức đã thống nhất với nhau về một kết luận chung là : dân tộc này đã làm được ít nhất 50% đoạn đường phát triển-tiến bộ-văn minh, và 50% đoạn đường còn lại thuộc về những kẻ lãnh đạo liêm chính luôn tỉnh táo để sáng suốt để đến được 100%. Nên những kẻ lãnh đạo này muốn bắt đầu công việc này thì phải thấy-cho-thấu là Việt tộc luôn muốn bồi đắp nhân phẩm của mình, tức là dũng tộc này muốn bảo vệ nhân vị của mình; nghĩa là minh tộc này muốn vun xới cho nhân trí của mình. Chính liên minh nhân phẩm-nhân vị-nhân trí của Việt tộc sẽ làm bàn đạp rồi giàn nhún để trợ lực cho những kẻ lãnh đạo liêm chính luôn tỉnh táo để sáng suốt biết đẩy lùi sự thất vọng đã ngày ngày ngự trị giữa não trạng của công dân Việt, để tẩy xóa nỗi tuyệt vọng hiện nay đang «ăn nằm ở dề» trong não bộ của cả một dân tộc
Le Huu Khoa