- 21/7/2019
- Biển Đông được xác định là con đường sinh mệnh của nền kinh tế Trung
Quốc, giúp kết nối Trung Quốc với 125 nước và vận chuyển 3/4 lượng dầu nhập
khẩu vào nước này.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của Nguyên Đại sứ Việt Nam
tại Brunei, nguyên Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao Nguyễn
Trường Giang nói tại CLB Cafe Số gần đây về mưu đồ chiến lược của Trung Quốc
tại Biển Đông.
Thứ nhất, lợi ích của Biển Đông là về vấn đề kinh
tế, đầu bảng là tài nguyên dầu khí, sau đó là băng cháy. Khu vực Đông Nam Á có
lượng băng cháy cực lớn. Đây là nguồn năng lượng của tương lai, có thể sử dụng
trong nhiều thế kỷ, theo tính toán sơ bộ là khoảng 800 năm tới.
Việt Nam là một trong những quốc gia sở hữu lượng băng cháy
tương đối lớn. Chúng ta có khoảng 2.400 tỷ mét khối băng cháy, là quốc gia
có thứ hạng ở Châu Á về loại tài nguyên này. Đây là nguồn năng lượng tuyệt vời.
Do đó, Trung Quốc nhìn vào nguồn băng cháy như một loại tài nguyên thay thế cho
dầu khí đang dần trở nên cạn kiệt.
Mưu đồ chiến lược của Trung Quốc về Biển
Đông
|
Thứ hai, Biển Đông được xác định là một
trong 4 khu vực đánh cá chủ yếu của ngư dân Trung Quốc.
Thứ ba, Biển Đông cũng được xác định là con
đường sinh mệnh của nền kinh tế Trung Quốc. Trong số 27 tuyến vận tải của Trung
Quốc, 17 trong số đó nằm ở Biển Đông. Biển Đông giúp kết nối Trung Quốc với 125
nước và vận chuyển 3/4 lượng dầu nhập khẩu vào nước này.
Về an ninh quốc phòng, đây là một bức trường thành tự nhiên trên
biển. Biển Đông như một vành đai quân sự, phòng thủ, là rào cản an ninh để
ngăn chặn những rủi ro và uy hiếp từ bên ngoài.
Về mặt địa chiến lược, Trung Quốc xác định Biển Đông như sân
sau, nơi tập dượt của hải quân Trung Quốc để tiến ra thế giới bên ngoài.
Biển Hoa Đông ở phía đông Trung Quốc quá nông, lại có một đối
thủ khó nhằn là Nhật Bản án ngữ phía ngoài. Còn đối với Biển Đông, vùng biển
này rộng 3,4 triệu km2, độ sâu trung bình là 1.400 mét và có rất nhiều rãnh
sâu. Đây là địa điểm tuyệt vời cho sự hoạt động của các loại tàu ngầm.
Muốn thành bá chủ toàn cầu, Trung Quốc phải trở thành cường
quốc trên biển. Điều này chỉ có thể thực hiện được ở Biển Đông, vùng biển
mà xung quanh đó toàn các quốc gia nhỏ bé. Về mặt địa chiến lược, đây là cửa
ngõ duy nhất, là bàn đạp để Trung Quốc đi ra thế giới bên ngoài. Do vậy, trong
cái nhìn đại chiến lược của người Trung Quốc, Biển Đông có lợi ích sống còn.
Trung Quốc sắp đặt Biển Đông trong chiến lược an ninh - phát
triển như thế nào?
Từ các văn kiện Đại hội Đảng, chương trình nghị sự của
chính phủ và thông tin chính thức từ phía Trung Quốc, nước này xác định Biển
Đông là một phần quan trọng, cũng là điểm khởi đầu cho con đường tơ lụa
trên biển. Con đường này là trọng tâm của sáng kiến Vành đai - Con đường. Sáng
kiến này là một phần của giấc mơ chấn hưng Trung Quốc.
Biển Đông là một phần của chiến lược biến Trung Quốc thành một
cường quốc biển. Một quốc gia muốn tiến vào vị trí trung tâm quyền lực chính
trị của thế giới thì không thể không trở thành một cường quốc biển.
Chính giới Trung Quốc đã lồng ghép vấn đề Biển Đông vào mục tiêu
trăm năm, coi đó là việc triển khai thực hiện giấc mộng Trung Hoa. Nước này
thậm chí còn đưa vấn đề chủ quyền và lợi ích trên biển thành một trong những
lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, tương tự như vấn đề Đài Loan, Tân Cương và Tây
Tạng. Tần suất Trung Quốc đưa ra lời khẳng định các đảo ở Biển Đông thuộc về
mình từ ngàn đời đang không ngừng tăng lên.
Nguyên thủ các quốc gia trên thế giới thường ít nói về vấn đề
chủ quyền. Thay vào đó, họ thường để cho những cơ quan có thẩm quyền lên tiếng.
Tuy nhiên, liên tiếp trong năm 2016, Chủ tịch Trung Quốc đã 3 lần phát biểu câu
chuyện này ở nước ngoài, điều trước đây chưa từng có đã thể hiện sự quan
tâm đến mức tối đa của Trung Quốc đối với vấn đề Biển Đông.
Bên cạnh đó, cơ quan truyền thông nhà nước Trung Quốc liên tục
khẳng định rằng nước này không có gene xâm lược, không xâm phạm vào lợi ích của
các nước khác, thế nhưng Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ quyền lợi của mình.
Năm 2021, Trung Quốc sẽ diễn ra sự kiện kỷ niệm 100 năm
thành lập Đảng. Cùng với các sự kiện lớn này, Trung Quốc sẽ tiến hành nhiều
hành động lớn, tình hình Biển Đông vì thế cũng sẽ liên quan đến câu chuyện này.
Trung Quốc không đem lợi ích cốt lõi ra trao đổi, không có
chuyện nhân nhượng, thỏa thuận và từ bỏ tham vọng Biển Đông. Đây là một thông
điệp rất rõ ràng.
Chủ tịch Trung Quốc từng có một câu nói mà chúng ta cần phải lưu
ý: “Quân đội Trung Quốc triệu tập là có, đến là có thể đánh và đánh là có thể
thắng, để bảo vệ chủ quyền và các quyền liên quan ở Biển Đông”.
Vậy vài chục năm nữa Biển Đông sẽ như thế nào? Biển Đông
đại khái sẽ thế này, lúc nóng, lúc lạnh, lúc căng thẳng lúc hòa hoãn. Tất
nhiên, chúng ta cần có những nhìn nhận đúng đắn, có những động thái kiên quyết
đối với vấn đề này.
Tàu hải cảnh của Trung Quốc trên Biển Đông.
Ảnh: Reuters
|
Truyền thông Trung Quốc
Báo chí Trung Quốc nói, những nước như Việt Nam,
Phillipines, Brunei, Malaysia... là những kẻ đang cướp đảo, cướp biển, cuớp tài
nguyên của Trung Quốc, do đó chúng ta phải thu hồi. Điều này được thực hiện
bằng chiến lược ngoại giao đi trước, hải quân đi sau, văn công vũ vệ (tiến công
bằng văn, bảo vệ bằng vũ lực).
Có những tờ báo liệt kê 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc phải
đánh, một trong số đó là cuộc chiến trên Biển Đông để thu hồi những đảo bị các
nước chiếm đóng trái phép. Truyền thông Trung Quốc là một dấu hiệu giúp Việt
Nam có thể dự báo trước.
Trung Quốc đang làm gì từ năm 1949 đến nay?
1. Đưa ra các yêu sách chủ quyền và yêu sách trên biển.
2. Thực hiện những biện pháp hành chính. Thể hiện Biển Đông và
Hoàng Sa, Trường Sa trên bản đồ, đặt tên cho các đảo, quy thuộc sát nhập Hoàng
Sa, Trường Sa và vùng biển vào lãnh thổ Trung Quốc và các đơn vị hành chính
thuộc Trung Quốc.
3. Áp đặt nội luật của Trung Quốc vào khu vực Biển Đông, coi
Biển Đông thành khu vực của mình.
4. Các hoạt động kiểm soát, khống chế và làm chủ Biển Đông trên
thực địa. Bao gồm việc từng bước thay đổi nguyên trạng của Biển Đông, tạo ra
một cục diện quân sự thuận lợi cho Trung Quốc, dần dần khống chế, kiểm soát
Biển Đông, tiến tới mục tiêu lâu dài là độc chiếm toàn diện Biển Đông.
5. Sử dụng vũ lực. Từ năm 1956 đến nay, tất cả các bước tiến của
Trung Quốc trên Biển Đông đều là nhờ vũ lực. Trung Quốc liệu có tiếp tục sử
dụng vũ lực nữa hay không? Nếu không trả lời được câu hỏi này thì cực kỳ nguy
hiểm.
(Còn nữa)
Tư Giang lược ghi
Bài 2: Không gian sinh tồn của dân tộc đang bị thách
thức
- 22/7/2019/ -Cuối
thế kỷ này dân số nước ta lên khoảng 140 triệu người, con cháu chúng ta sống ở đâu nếu
không tiến ra biển.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của Nguyên
Đại sứ Việt Nam tại Brunei, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao
Nguyễn Trường Giang nói
tại CLB Cafe Số gần đây về sách lược người Việt Nam cần thực hiện để bảo vệ chủ
quyền Biển Đông.
Đầu tiên, cần phải nhận diện được thách thức của mình. Người
Việt Nam có một điểm yếu, đó là có thể nhận diện được tất cả mọi thứ, trừ bản
thân mình. Nếu chúng ta không sợ chiến tranh và chuẩn bị kỹ cho chiến tranh thì
chúng ta sẽ có hòa bình. Còn nếu chúng ta sợ hãi thì lập tức chiến tranh sẽ
đến, chúng ta mất hòa bình và mất cả chủ quyền lãnh thổ. Đây là vấn đề căn bản
của mọi binh pháp trên thế giới.
Qua bức tranh thực trạng Biển Đông như tôi đã
nói phần 1, có thể thấy mục tiêu
lâu dài của Trung Quốc là độc chiếm Biển Đông, tức là chiếm toàn bộ các đảo
trong vùng biển này (bao gồm 4 quần đảo Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa theo
cách gọi của Trung Quốc).
Trung Quốc cũng muốn chiếm chủ quyền với khoảng 80% diện tích
Biển Đông và toàn bộ tài nguyên trong khu vực biển này. Bên cạnh đó là quyền
kiểm soát với vùng trời, vùng biển và đáy biển. Điều này mang đến thách thức
nghiêm trọng đối với chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
Trong 6 thập kỷ qua, có thể thấy rõ các biện pháp và kế sách mà
Trung Quốc đã áp dụng để triển khai mục tiêu này. Nước này đã dùng đến mọi biện
pháp, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao cho đến tâm lý và cả thông tin tuyên
truyền.
Do vậy, có thể thấy thông tin tuyên truyền là một trong những
mặt trận rất quan trọng. Có những thời điểm, mặt trận tuyên truyền còn quan
trọng hơn cả mặt trận quân sự, ngoại giao hay pháp lý.
Các kế sách của Trung Quốc trên
Biển Đông
Người Trung Quốc ngày nay học tập nhiều từ binh pháp Tôn Tử,
nhưng cũng có rất nhiều cải tiến đối với loại binh pháp này. Người Trung Quốc biến
các loại mưu kế trở thành một bộ môn khoa học và đưa vào các nội hàm mới cho
những mưu kế này.
Các ví dụ có thể kể đến là kế sách “tằm ăn dâu”, “biến không
thành có”, “gác tranh chấp cùng khai thác”, “cây gậy và củ cà rốt”,...
Trong đó, một trong những kế sách thâm độc nhất của Trung Quốc
là chiến thuật “vùng xám”, tức dân sự hoá các hoạt động quân sự và bán quân sự,
không sử dụng hải quân cũng như các hoạt động có cường độ quá mạnh hay vượt qua
một giới hạn đỏ nào đó. Mục đích của điều này là không để tạo ra những phản ứng
quá quyết liệt từ các nước khác.
Nhìn vào quá khứ, dự đoán tương
lai
Trong bức tranh về thực trạng ở Biển Đông, chúng ta có thể dựa
vào những gì đã xảy ra trong quá khứ để nhìn nhận và dự đoán tương lai.
Về trung hạn, Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục đưa dàn khoan vào
thềm lục địa Việt Nam. Khả năng thứ 2 là Trung Quốc sẽ tạo ra một vùng nhận
diện phòng không trên Biển Đông. Trung Quốc cũng có thể sẽ tiến hành chiếm giữ
một số bãi đá ngầm mà chưa có quốc gia nào chiếm đóng.
Dù rất hãn hữu, thế nhưng không loại trừ khả năng Trung Quốc sẽ
đánh chiếm Trường Sa. Tuy nhiên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ có một thời
cơ thích hợp. Người Trung Quốc thường chỉ hành động khi có thiên thời, địa lợi,
nhân hòa và tính toán được rất kỹ cái giá phải trả. Đây chính là điểm để Việt
Nam hoạch định các kế sách đối phó.
Nếu Việt Nam có thể làm cho Trung Quốc không có được thiên thời,
địa lợi, nhân hòa hoặc trong trường hợp có chiến tranh, nước này sẽ phải trả
một cái giá rất đắt thì họ sẽ không dám đánh chiếm Trường Sa nữa.
Trong 2 năm tới trước Đại hội, việc quân sự hoá Biển Đông
sẽ được Trung Quốc thực hiện ráo riết hơn. Trung Quốc có thể đưa những lực
lượng quân sự đông hơn ra chiếm đóng tại Trường Sa. Nước này cũng có thể vẽ ra
lãnh hải của những hòn đảo mà hiện tại họ đang chiếm đóng, cũng như vùng nội
thuỷ của các đảo này. Đây là những cảnh báo mà chúng ta cần phải lưu ý.
Trung Quốc sẽ sớm thông qua Luật An toàn giao thông hàng hải sửa
đổi. Từ dự thảo của bộ luật này, có thể thấy Trung Quốc có khả năng dựa vào đây
để lập các vùng an toàn hàng hải trên biển. Điều gì sẽ xảy ra nếu vùng an toàn
bao chùm lên các nhà giàn DK1 của Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu thuyền sẽ
phải xin phép khi tiến vào vùng biển Trường Sa. Điều này cũng có nghĩa là các
đảo của Việt Nam sẽ bị phong toả.
Năm 2016, 2017, trên các phương tiện thông tin đại chúng của
Trung Quốc đưa ra một dự báo cho thấy, Trung Quốc có thể đưa những nhà máy điện
hạt nhân nổi ra Biển Đông.
Nếu như các nhà máy điện hạt nhân nổi được
triển khai tại Biển Đông, nó sẽ mang lại rất nhiều thách thức về chủ quyền, môi
trường, kinh tế, tài nguyên và đối với mạng sống của hàng trăm triệu người…
Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào vùng
biển của Việt Nam năm 2014
|
Đánh giá về tình hình hiện nay, có thể thấy vấn đề Biển Đông
đang ngày càng phức tạp và diễn biến khó lường. Chủ quyền biển đảo Việt Nam
đang bị thách thức nghiêm trọng và thách thức này sẽ còn nghiêm trọng hơn nữa
trong tương lai.
Các thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt là về chủ quyền, kinh
tế biển, an ninh quốc phòng, môi trường phát triển và thách thức đối với không
gian sinh tồn của dân tộc. Cuối thế kỷ 21, Việt Nam sẽ có quy mô dân số khoảng
140 triệu người. Lúc này chúng ta cần phải tiến ra biển, biển là niềm hy vọng
và là không gian sinh tồn của những thế hệ sau này.
Hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với một kiểu xâm lược như
vậy: tiến dần dần. Vì thế, tôi muốn nhấn mạnh về thách thức không gian sinh tồn
của dân tộc .
Cuối thế kỷ này dân số nước ta lên khoảng 140 triệu người, con
cháu chúng ta sống ở đâu nếu không tiến ra biển. Lúc đấy là chúng ta cần có
thành phố biển, có làng mạc biển, có nông nghiệp biển, có công nghiệp biển, có
cảng biển, có sân bay trên biển. Biển là niềm hi vọng, là không gian sinh tồn
của những thế hệ sau này.
Và tôi muốn nhấn mạnh điểm này: không gian sinh tồn của dân tộc
mình đang bị thách thức.
(Còn nữa)
Tư Giang lược ghi
Bài 3: Chúng ta có thể giữ được Biển Đông một cách hòa bình
- 23/7/2019 - Trước hết,
chúng ta phải khẳng định chắc chắn 100%, chúng ta có thể giữ được Biển Đông, và
có thể giữ được một cách hòa bình.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của Nguyên
Đại sứ Việt Nam tại Brunei, Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao -
Nguyễn Trường Giang về
nhiệm vụ truyền thông của chúng ta trong bảo vệ chủ quyền Biển Đông tại CLB
Cafe Số gần đây.
Câu hỏi
tiếp theo là: Sau khi biết tình hình thực trạng rồi, Việt Nam làm gì để bảo vệ
chủ quyền Biển Đông? Tôi chỉ nêu một vài điểm vì có hàng nghìn đầu việc. Nhưng
trước hết, chúng ta phải khẳng định chắc chắn 100%, chúng ta có thể giữ được
Biển Đông, và có thể giữ được một cách hòa bình.
Tôi xin
thưa, Biển Đông không chỉ có thách thức, nó còn là cơ hội tuyệt vời cho chúng
ta.
Việt Nam
sở hữu những vũ khí, những giá trị vô cùng quan trọng, trong đó có danh tiếng
của mình. Danh tiếng của Việt Nam tương đương với 50 sư đoàn tinh nhuệ nhất
trên thế giới.
Trong
cuộc chiến tranh Iraq, Mỹ mất 12 nhân mạng là do tai nạn trực thăng, còn không
thì chẳng mất người nào hết. Trong cuộc chiến ở Iraq, thông tin truyền thông
đóng vai trò căn bản, 90% thắng lợi của Mỹ là cuộc chiến tranh truyền thông
trước khi diễn ra.
Vào giờ
chuẩn bị khởi động chiến tranh, Tổng thống G. Bush (cha) xuất hiện trên truyền
hình và kêu gọi Iraq suy nghĩ. Saddam Hussein cũng xuất hiện trên truyền hình
truyền đi một thông điệp: thua cũng đánh.
Tư lệnh
của một quân đội 1,5 triệu người được trang bị những vũ khí hiện đại nhất mà
chưa vào trận đã nhắc đến thua. Vậy nên, có những đoàn quân 300 nghìn người
không bắn một phát súng. Như vậy làm sao lại không thua. Đó là do phát ngôn của
Saddam Hussein.
Sức mạnh
tinh thần mới là nguồn sức mạnh của chúng ta, của dân tộc Việt Nam. Không phải
tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta.
Chúng ta đang sở hữu một vũ khí quan trọng như thế thì chúng ta nên sử dụng như
thế nào?
Việt Nam
cần làm gì để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông?
Nếu chúng
ta đặt ra câu hỏi này, chúng ta đã trả lời được 50%. Nếu chúng ta tự hỏi làm
thế nào để cho đất nước Việt Nam trở nên hùng cường, thì chúng ta đã đặt chân
lên con đường đi đến hùng cường và thịnh vượng.
Vấn đề
truyền thông rất quan trọng. Sự an toàn biển đảo tỷ lệ thuận với sự quan tâm
của dân chúng về vấn đề Biển Đông.
Tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc
|
Có mấy
việc phải làm, tôi xin nêu ngắn gọn:
- Nhận
diện rõ thách thức với chủ quyền biển đảo.
- Củng
cố ý chí quyết tâm.
- Huy
động sức mạnh tổng lực của quốc gia.
- Phát
huy được sức mạnh của thời đại.
- Xây
dựng đất nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Thông tin truyền thông cần làm
gì?
Thông tin
truyền thông đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Thông tin truyền thông là một bộ
phận cấu thành của cuộc chiến này, quan trọng không kém gì chính trị, quân sự,
ngoại giao, pháp lý. Bây giờ, thậm chí, nó quan trọng hơn cả quân sự, ngoại
giao pháp lý.
Lúc này
là thời điểm rất quan trọng để xác định chúng ta giữ được biển hay không. Chúng
ta chọn hướng nào? Chúng ta có lựa chọn khác với ông cha mình hay không? Như
vậy chúng ta phải coi thông tin truyền thông là một mặt trận.
Thông tin
truyền thông không chỉ đưa tin, bình luận, nâng cao nhận thức, không chỉ có
tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, mà còn phải thêm cả
công tác dự báo.
Những
việc thông tin truyền thông cần làm bao gồm nêu cao chính nghĩa của Việt Nam
trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền trên biển; góp phần huy động sức mạnh tổng
lực quốc gia; phát huy sức mạnh của thời đại; góp phần xây dựng nước Việt Nam
hùng cường.
Xin giải
thích rõ những vấn đề trên như sau:
1. Nêu
cao chính nghĩa.
Nêu cao
chính nghĩa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thông tin truyền thông. Muốn
nêu cao chính nghĩa phải làm hai việc.
Thứ nhất, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Trường
Sa và Hoàng Sa; bác bỏ được yêu sách đường lưỡi bò, bác bỏ cái gọi là chủ quyền
lâu đời của Trung Quốc đối với Trường Sa, Hoàng Sa.
Để nêu
được chính nghĩa phải đưa ra được các chứng cứ pháp lý và lịch sử xác thực và
thuyết phục các cơ quan tài phán quốc tế. Truyền thông báo chí phải kết hợp với
các chuyên gia trong nước, quốc tế.
2. Huy
động sức mạnh tổng lực quốc gia.
Củng cố ý chí quyết tâm bảo vệ đến cùng biển đảo bằng bất
cứ giá nào. Thông tin truyền thông phải biến nó thành ý chí của toàn bộ dân
tộc, của cả hệ thống chính trị và của tất cả mọi người dân Việt Nam.
Cần nâng
cao nhận thức của người dân về biển đảo. Nhận diện rõ thách thức với chủ quyền
biển đảo. Đánh giá Trung Quốc thế nào? Hiện nay, thế giới nhận định về Trung
Quốc như con hổ mới trỗi dậy, dữ dằn về quân sự, chính trị, kinh tế. Họ là một
con hổ đói: Đói không gian sinh tồn, đói tài nguyên thiên nhiên, đói quyền lực
chính trị. Tuy nhiên, con hổ đó có nhiều bệnh về chính trị, văn hóa, dân tộc, sắc
tộc, môi trường…
Truyền thông cần đề cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự
tôn dân tộc, phẩm cách quốc gia. Đặc biệt, củng cố đại đoàn kết dân tộc, xây
dựng sức mạnh toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên đồng thuận dân tộc:
đồng thuận về nhận thức, ý chí, hành động. Củng cố niềm tin: niềm tin phải có
cơ sở, dựa trên điểm mạnh và yếu của Việt Nam và đối thủ, đồng thời tin vào khả
năng của chúng ta.
3. Truyền
thông phải lan tỏa giấc mơ về đất nước
Việt Nam hùng cường, thịnh vượng. Trong vòng 15 năm nữa chúng ta
có thể trở thành cường quốc tập trung với 5 tiêu chí: Quân sự, Kinh tế, Văn hóa
– Giáo dục, Khoa học – Công nghệ, Chính trị. Hiện nay, chúng ta đang thiếu hai
thứ: Một là minh triết, hai là kế hoạch (giấc mơ).
Truyền
thông, tuyên truyền cần nhanh chóng và kịp thời; khách quan và chính xác; hay
và hấp dẫn.
Tôi phải
nhấn mạnh lại một lần nữa: Không phải tàu chiến, tàu ngầm, thông tin truyền
thông mới là nguồn sức mạnh của chúng ta. Sức mạnh tinh thần mới là nguồn sức
mạnh của dân tộc Việt Nam trước bất kỳ kẻ xâm lược nào.
Tư Giang lược ghi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét