Thứ Ba, 27 tháng 8, 2019

Không có gì quý hơn Độc lập - ự do


Ngót 10 năm đã trôi qua, suy nghĩ của TTMT cũng đã vượt lên, khác trước. Chúng tôi cho đăng bài của Bùi Minh Quốc vừa gởi đến, để thấy một thời nhận thức. Lập Quyền Dân

Kính anh Mai
Kính gửi anh bài dưới đây, nếu anh thấy được thì cho đăng trên LẬP QUYỀN DÂN, cám ơn anh.
(Nhân tiện, kể riêng với anh : sau cuộc hội thảo 26/10/2011 do anh tổ chức đó, tôi có cuộc gặp trò chuyện khoảng 3 tiếng với anh Nguyễn Văn An tại nhà riêng anh ấy. Tôi đã tặng anh An một bản tham luận kể cả phần phát biểu miệng được văn bản hoá, và nhờ anh An chuyển đến tận tay tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, thường trực Ban bí thư Lê Hồng Anh mỗi người một bản. Tôi tin rằng anh An đã chuyển như đã hứa với tôi).
Kính thưa các bạn quan tâm đến ngòi bút của tôi
Rất trân trọng cám ơn nếu bạn dành ít phút để mắt tới bài dưới đây, dẫu đã hơi cũ, cách nay 8 năm, nhưng tôi hy vọng cũng còn chút nào đó có thể đóng góp cho cuộc vận động LẬP QUYỀN DÂN – THIẾT LẬP QUYỀN LÀM CHỦ THỰC SỰ CỦA NHÂN DÂN hiện nay.


BÙI MINH QUỐC

NGHĨ THÊM VỀ LỜI KÊU GỌI
KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO

Tham luận đọc tại hội thảo “Minh triết Hồ Chí Minh, một định hướng phát triển Việt Nam” do Trung tâm Văn hoá Minh triết tổ chức tại Hà Nội ngày 26/10/2011, với sự chủ trì của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, giám đốc Trung tâm.

Tôi rất tán thành ý kiến của cựu chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An nhận định rằng minh triết Hồ Chí Minh là minh triết – lý luận – hành động, nói rõ hơn, đó là minh triết được thể hiện thành những tư tưởng cụ thể, nói ra bằng những lời giản dị, rõ ràng, chắc chịch, dứt khoát, có thể chuyển ngay thành hành động; minh triết – tư tưởng gắn chặt với hành động.
         Tôi xin lấy ví dụ : KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO.
Lời kêu gọi lịch sử ấy của chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên lần đầu tiên vào buổi sáng ngày 17.7.1966 tại thủ đô Hà Nội, làm rung động mãnh liệt mọi trái tim Việt Nam yêu nước, yêu dân chủ tự do. Vì độc lập, vì tự do, biết bao người con của Tổ quốc Việt Nam và gia đình họ, trong đó có bản thân tôi, vợ tôi, gia đình tôi cả bên nội lẫn bên ngoại, đã không chút đắn do hiến dâng cả tính mạng suốt mấy cuộc chiến đấu trường kỳ.
Thực ra, ngay từ năm 1942, tư tưởng KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO của Hồ Chí Minh – cũng là lẽ sống của bất cứ con người bình thường nào – đã ghi rõ ràng trong bốn câu thơ này :
Trên đời nghìn vạn điều cay đắng
Cay đắng chi bằng mất tự do
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ
Để cho người dắt tựa trâu bò
(Hồ Chí Minh - Nhật ký trong tù)
Như thế, độc lập, trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ hạn hẹp ở độc lập dân tộc, dầu rằng độc lập luôn luôn là nỗi ám ảnh nghìn đời của dân tộc ta, và vào thời điểm ra đời những câu thơ trên đang là nhiệm vụ bức thiết hàng đầu. Độc lập, ở Hồ Chí Minh còn một tầng nghĩa nữa sâu hơn, đó là vị thế độc lập của mỗi con người, trước hết là cái quyền suy nghĩ độc lập và công khai nói lên tiếng nói độc lập, để không rơi vào cảnh “mỗi việc mỗi lời không tự chủ để cho người dắt tựa trâu bò”.Tự do cũng vậy. Tự do không chỉ là quyền của mỗi dân tộc trong mối quan hệ với dân tộc khác (lâu nay không ít bài trên báo đài thường có kiểu nói lướt nói tắt “Độc lập Tự do của Tổ quốc” làm cạn nghĩa một lẽ sống phổ quát); tự do trước hết và căn bản là quyền của mỗi con người. Cho nên, ngay sau khi lãnh đạo nhân dân làm Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chủ tịch liền phải lập tức nhấn mạnh rạch ròi: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”(1)Chắc rằng Hồ Chủ tịch đã thấy trước, nếu không nói rạch ròi như vậy, ắt sẽ khó tránh khỏi tình trạng áp đặt cách hiểu cạn cợt về độc lập để lấn át các quyền tự do căn bản của người dân, trước hết là quyền suy nghĩ độc lập và tự do nói lên tiếng nói độc lập.
Nhưng suy nghĩ độc lập để tìm ra lẽ phải, nói và làm theo lẽ phải là việc tưởng như đương nhiên bình thường bình dị mà thực ra lại hoàn toàn không đơn giản giữa cái thế thái nhân tình vô cùng rắc rối này. Ngay từ 1942 Cụ Hồ đã ghi lại thành thơ sự trải nghiệm ấy: “Vốn biết việc đời không phải dễ/Mà nay càng thấy khó khăn hơn” (Nhật ký trong tù).
Cũng trong năm 1966, có một người cộng sản thấm nhuần tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã dũng cảm làm theo sự suy nghĩ độc lập xuất phát từ thực tiễn của mình : thực hiện khoán trong hợp tác xã nông nghiệp - một việc động trời đụng chạm gay gắt vào các giáo điều phản động phản lại lợi ích của nhân dân đang ngự trị trói buộc nền sản xuất. Người đó là ông Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú. Bí thư Kim Ngọc phải trả giá nặng nề cho tư tưởng  “Không có gì quý hơn độc lập tự do” như thế nào mọi người nay đã rõ, nhưng sự hy sinh cao cả của ông đã được đền bù xứng đáng (tuy muộn mằn, phải đợi đến 22 năm) khi “khoán Kim Ngọc” được  những cán bộ chủ chốt kiên trung của đảng bộ Hải Phòng dũng cảm tiếp tục thực hiện tạo cơ sở thực tiễn cho “khoán 100” rồi “khoán 10”, đưa Việt Nam từ chỗ năm nào cũng phải cử người xách túi đi xin viện trợ lương thực chỉ trong một thời gian ngắn đã có thóc gạo dồi dào và tiến lên thành nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai thế giới.
Quyền suy nghĩ độc lập và tự do nói lên suy nghĩ độc lập cùng các quyền căn bản khác của người dân chỉ có thể trở thành hiện thực bình thường bằng một chế độ dân chủ. Cho nên Hồ chủ tịch khẳng định rõ :
Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào ? Đối với MỌI VẤN ĐỀ, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”(2).
Tôi xin nhấn mạnh mấy chữ MỌI VẤN ĐỀ trong câu vừa dẫn trên, nghĩa là dứt khoát không được phép đặt ra các vùng cấm cho việc tự do bày tỏ ý kiến. Hơn nữa, thật đặc biệt sâu sắc và triệt để, Hồ Chủ tịch coi việc tự do bày tỏ ý kiến không những là quyền mà còn là nghĩa vụ của mọi người. Đã là nghĩa vụ thì những ai không dám tự do bày tỏ ý kiến để góp phần tìm ra chân lý là người đó chưa làm tròn trách nhiệm đối với xã hội và với chính bản thân mình.Và do đó, lẽ tất nhiên, những ai cậy quyền cậy thế mà hạn chế, áp chế việc tự do bày tỏ ý kiến của mọi người là có tội lớn với xã hội, là phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chủ tịch còn luôn khẳng định :
“Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” (3)
“Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng nhân dân đưa cách mạng tiến lên”(4)
(Xin nhấn mạnh mấy chữ “phát huy dân chủ đến cao độ” trong câu vừa dẫn trên để càng thấy tính triệt để trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của người dân : yêu cầu đặt ra không phải chỉ là phát huy dân chủ ở mức bình thường, thậm chí tệ hơn nữa chỉ đối phó bằng kiểu thực hiện dân chủ một cách làng nhàng, hời hợt, hình thức – căn bệnh kinh niên rất phổ biến bấy lâu nay – mà phải là “phát huy dân chủ đến cao độ”).
“Thực hành dân chủ là cái CHÌA KHÓA VẠN NĂNG có thể giải quyết mọi khó khăn”(5).
Và trong di chúc của mình, chủ tịch Hồ Chí Minh lại hai lần nhấn mạnh DÂN CHỦ:
“Trong Đảng phải thực hành DÂN CHỦ”
“Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất độc lập DÂN CHỦ và giầu mạnh”
Đại hội Đảng lần thứ 9 đã đưa DÂN CHỦ thành mục tiêu xây dựng xã hội, coi dân chủ là tiền đề để có công bằng và văn minh, dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực – là CHÌA KHÓA VẠN NĂNG, mở ra một nguồn sức mạnh vô cùng lớn để giải quyết mọi khó khăn đưa đất nước phát triển lành mạnh và bền vững, đảm bảo tự do hạnh phúc cho mỗi con người.
Khi mục tiêu dân chủ đã được ghi trong cương lĩnh thì toàn Đảng, từ Tổng bí thư đến đảng viên thường phải coi đó là mệnh lệnh – mệnh lệnh thiêng liêng của Cách mạng, của non sông đất nước – phải chấp hành cho bằng được. Đối với cơ quan lãnh đạo, phải biến mục tiêu đó thành những chính sách cụ thể, những quy định pháp luật đảm bảo cho người dân được hưởng các quyền tự do cơ bản mà nhân dân đã giành được khi vùng lên làm Cách mạng Tháng Tám 1945.
Nhưng, đã 10 năm kể từ đại hội 9, tình trạng mất dân chủ trong Đảng và trên toàn xã hội ngày càng trầm trọng, mà chưa hề có một cuộc kiểm điểm nghiêm túc nào của cơ quan lãnh đạo về việc thực hiện mục tiêu dân chủ đã ghi trong cương lĩnh.
Hồ Chủ tịch từng nói rất cụ thể, rạch ròi dứt khoát: “Dân chủ trước hết là để cho dân được mở miệng”. Vậy mà ngay đến các bức thư của Đại tướng đại công thần Võ Nguyên Giáp bày tỏ ý kiến về các việc quốc gia đại sự cũng không được đăng, mà không một cán bộ lãnh đạo nào dám nhận trách nhiệm về việc này. Nếu nghiêm túc thực hiện lời Hồ Chủ tịch, thì ngay ngày mai tất cả các báo phải đăng các bức thư đó của Võ Đại tướng.
Hồ Chủ tịch đã viết rất rõ từ năm 1948 về nguyên tắc “dân chủ tập trung”, đặt dân chủ lên trước, chỉ có lấy dân chủ làm nền móng thì sự tập trung mới có giá trị, nếu không thì sẽ chỉ là sự tập trung quyền lực vào tay một thiểu số bè phái, cá nhân chủ nghĩa. Đã nhiều năm, trong các văn kiện chỉ thấy ghi ngược nguyên tắc nêu trên thành “tập trung dân chủ”. Phải chăng đây là một dụng ý ngấm ngầm phản bội tư tưởng Hồ Chí Minh cài đặt ngay vào văn kiện của Đảng ? Tình hình thực tế đã diễn ra đúng như thế.
Chung quy lại, đã đến lúc sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh phải được thể hiện bằng hành động dứt khoát : chuyển ngay việc NÓI DÂN CHỦ thành việc LÀM DÂN CHỦ.
Dân chủ trong Đảng và dân chủ trên toàn xã hội.
Muốn thế, đảng viên phải làm chủ Đảng và công dân phải làm chủ các hội đoàn mà mình tham gia.
Từng đảng viên, từng công dân phải chủ động nắm lấy và thực hành quyền làm chủ của mình một cách kiên quyết và kiên trì, từng ngày một, từng việc một, từ việc dễ đến việc khó, tiến tới làm chủ thường xuyên, trong mọi việc, từ việc nơi tổ đảng, tổ nông hội, tổ công đoàn dến những việc ở tầm chiến lược quốc gia.
Làm chủ phải là lẽ sống, là nếp sống, là niềm vui sống hàng ngày của mỗi con người, của mọi người.                                         
BMQ
Chú thích :
(1), (2), (4), (5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG, H, t4, tr 56, t8, tr216, t9, tr 582, t12, tr 249.
(3) Bài nói với trí trức ở lớp nghiên cứu chính tri, ngày 8.12.1956
Ghi chú : Ngay sau khi đọc bản tham luận trên đây (đã in trong tập kỷ yếu của hội thảo), tôi có phần phát biểu miệng, xin văn bản hoá tóm tắt phần phát biểu miệng đó như sau :
1/- Tôi chưa hiểu gì về minh triết, với tôi đó vẫn là một phạm trù khá mông lung, tôi tiếp nhận từ Hô Chí Minh những lẽ phải hiển nhiên được ông cụ nói/viết ra bằng những lời lẽ giãn dị, rõ ràng, và tôi tự biến thành hành động sống (như là sự hít thở) suốt cả cuộc đời. KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO, đối với tôi, đó không phải là tiếng gọi từ trên cao dội xuống, mà chính là tiếng lòng tôi cất lên, là ngọn lửa khát vọng luôn cháy bỏng trong tôi.Tôi là một trong hàng triệu triệu người Việt Nam đã sống như thế.
         2/- Từ năm 1975 đến nay đã diễn ra một tình trạng phản bội Hồ Chí Minh, tình trạng này diễn ra trước hết ở phần lớn những người gánh vác việc dân việc nước nắm giữ quyền lực chi phối mọi mặt của xã hội Việt Nam; ở họ, lẽ sống “không có gì quý hơn Độc lập Tự do” đã chuyển thành lẽ sống, lối sống “không có gì quý hơn chiếc ghế quan to”.
         3/- Tôi yêu cầu những người giữ trọng trách lãnh đạo đất nước hãy thực hiện ngay những việc làm đi đôi với lời nói. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây nói cần có đột phá về lý luận, Tổng bí thư là một nhà lý luận, vậy Tổng bí thư hãy viết ngay một bài mang tính đột phá về lý luận, ngay ngày mai đăng trên Tạp chí Cộng sản. Cách đây hơn một tháng, Thường trực Ban bí thư Lê Hồng Anh phát biểu tại Hội đồng lý luận trung ương rằng cần dân chủ thảo luận mở đường cho cái mới, vậy Ban bí thư hãy tổ chức ngay một cuộc thảo luận dân chủ giữa những người có ý kiến khác nhau. Nhiều cán bộ lãnh đạo ở cấp tối cao nhiều năm qua đã nhiều lần nói cần tôn trọng các ý kiến khác biệt nhưng thực tế không hề có sự tôn trọng mà là ngược lại, tôi mong Ban bí thư khoá này thể hiện ngay sự tôn trọng ấy bằng cách thực hiện ngay một cuộc thảo luận dân chủ giữa những người có ý kiến khác nhau.
         4/- Tôi đề nghị những người tham dự cuộc hội thảo hôm nay và giới trí thức nói chung, khi đã có sự thống nhất nhận thức về các giá trị Hồ Chí Minh thì chúng ta chuyển ngay nhận thức thành hành động, và hành động cần làm trước tiên là tạo ra một sức ép buộc những người đang gánh vác việc dân việc nước phải làm ngay theo Hồ Chí Minh.
Từ sự tiếp nhận và chiêm nghiệm riêng của mình, tôi xin mạn phép nương ý và chuyển tứ 4 câu thơ của Cụ Hồ viết trong tù năm 1942 thành 4 câu như sau:
         Trên đời ai chẳng cầu sung sướng
         Sướng nhất tự mình quyết tự do
         Mỗi việc mỗi lời quyết tự chủ
         Quyết không để dắt tựa trâu bò.

         Hà Nội 26/10/2011
         BMQ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét