Thứ Sáu, 9 tháng 4, 2021

Đối phó với khủng hoảng thể chế

 

Ba yếu tố quan trọng trong việc đối phó với khủng hoảng thể chế là năng lực của Nhà nước, vai trò người đứng đầu và niềm tin của xã hội vào chế độ, trong đó yếu tố sau cùng là thách thức lớn nhất đối với Đảng.

Người đứng đầu: chuyển giao quyền lực khó khăn

Người đứng đầu có vai trò quyết định trong chế độ tập quyền. Mỗi khi khủng hoảng thì việc thanh trừng phe phái được đẩy mạnh để tái tập trung quyền lực. Tuỳ thuộc vào bối cảnh mà cách thức tiến hành có thể khác nhau, song tựu chung lại có ba yếu tố quan trọng để ứng phó với khủng hoảng thể chế: người đứng đầu, nhân sự lãnh đạo của bộ máy cai trị và lòng tin của xã hội, trong đó việc lấy lại niềm tin của xã hội là thách thức lớn nhất.

“Bất ổn” thể chế ở Việt Nam thể hiện trước hết về niềm tin chính trị, và cao điểm diễn ra trong nhiệm kỳ Đại hội 11 của Đảng Cộng sản (2011-2016) khi kinh tế bị khủng khoảng do những sai lầm về chính sách và điều hành tăng trưởng nóng vội. Ông Nguyễn Phú trọng khi đó giữ cương vị Tổng Bí thư nhiệm kỳ thứ nhất. Đặc trưng nổi bật của “bẩt ổn” là quyền lực lãnh đạo tuyệt đối của Tổng Bí thư bị ‘thách thức’. Thủ tướng Chính phủ, theo Bộ Chính trị, là người phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên, đề xuất kỷ luật đã không được Ban Chấp hành Trung ương chấp nhận. Nguyên tắc lãnh đạo tập trung dân chủ bị lung lay.

Tân Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc (trái) và tân Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Quốc hội hôm 5/4/2021. AFP

Ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người lãnh đạo kỳ cựu, có thâm niên Bộ Chính trị và ‘tứ trụ’ lâu chỉ sau cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã ứng phó thành công với “bất ổn” bằng cách vận dụng các quy định phức tạp. Bản lĩnh và  kinh nghiệm chính trường đã giúp ông tái đắc cử chức vụ Tổng Bí thư Đảng ở nhiệm kỳ thứ hai (2016-2021) dù đã quá giới hạn quy định về tuổi. Ngay từ đầu nhiệm kỳ 12 ông đã đẩy mạnh chỉnh đốn đảng đồng thời với chiến dịch “đốt lò” nhằm vào các quan chức suy thoái về “tư tưởng và đạo đức”. Điều đó giúp ông tiếp tục tại vị trong nhiệm kỳ thứ ba hiện nay (2021-2026). Ông đã vượt qua cả giới hạn hai nhiệm kỳ được ghi trong Điều lệ Đảng với tư cách “trường hợp đặc biệt của đặc biệt”.

Tuy nhiên, ông không thể lãnh đạo mãi vì lý do tuổi tác và sức khoẻ. Bởi vậy, việc chuyển giao cương vị Tổng Bí thư sẽ không tránh khỏi, nhưng cho ai vẫn còn là ẩn số. Hiện thời, ông “tự tin” với quyền lực tập trung đủ mạnh để củng cố vị thế lãnh đạo tuyệt đối và tiến hành cải cách, trước mắt là xây dựng và vận hành bộ máy cai trị mới.

Năng lực Nhà nước: lấp khoảng trống quyền lực

Không ai có thể cai trị một mình. Chỉnh đốn đảng và xây dựng bộ máy lãnh đạo là việc tiếp sau phải làm. Đảng nhận định thực trạng suy thoái về “đạo đức và lối sống” của bộ phận không nhỏ quan chức trong bộ máy là nghiêm trọng, “ăn của dân không từ cái gì”, đến mức đe doạ sự tồn vong của chế độ. Bởi vậy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh “công tác cán bộ” là “then chốt của then chốt” trong suốt nhiệm kỳ 12. Kiểm soát quyền lực là ưu tiên, nhưng năng lực của Nhà nước mới là cần thiết.

Thay mới hoàn toàn là điều không thể, “kỷ luật hết thì lấy ai làm việc”. Bởi vậy, việc sàng lọc đã được tiến hành “thận trọng” bởi các quy trình phức tạp kết hợp với chiến dịch “đốt lò” vẫn tiếp tục, cân nhắc từ “dễ đến khó” và cán cân quyền lực. Đồng thời với việc kỷ luật hàng nghìn cán bộ lãnh đạo, Trung ương đảng đã kiểm soát nhân sự ngay từ khi đại hội đảng các cấp chuẩn bị cho Đại hội 13. Các thủ thuật tổ chức như luân chuyển vị trí, bố trí lại… cũng diễn ra thường xuyên. Việc xây dựng “lồng thể chế” kiểm soát quyền lực cũng được xúc tiến, mặc dù còn nhiều trở ngại….

Hai trăm Uỷ viên Trung ương Đảng –  bộ máy quyền lực cao nhất của Đảng được chọn ra tại Đại hội 13 là kết quả của những nỗ lực chỉnh đốn nội bộ dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Phú Trọng. Ông đã quyết đoán về  “phương án” nhân sự và đã tỏ ra tự tin trước thông tin rò rỉ về “danh sách” trên mạng xã hội. Ông đã chỉ thị “Không để khoảng trống quyền lực” và nhanh chóng giới thiệu các lãnh đạo chủ chốt tham gia bộ máy nhà nước tại kỳ họp cuối cùng để Quốc hội khoá 14 chuẩn thuận.

Ngày 5/3 vừa qua, sự thay thế các vị trí “tứ trụ” đã hoàn tất. Ông Vương Đình Huệ được “bầu” Chủ tịch Quốc hội thay bà Nguyễn Thị Kim Ngân, ông Nguyễn Xuân Phúc được “miễn nhiệm” chức Thủ tướng Chính phủ để trở thành Chủ tịch nước, ông Phạm Minh Chính giữ chức Thủ tướng Chính Phủ. Mọi việc được Đảng ‘sắp đặt’ theo lịch trình…

Đảng đã quyết về nhân sự lãnh đạo, bởi vậy quy trình trên tại kỳ họp cuối của Quốc hội 14 cho thấy “bệnh hình thức” còn nặng nề. “Tam trụ” nêu trên đã “tuyên thệ”, nhưng rồi thủ tục này sẽ lặp lại lần nữa khi hoàn tất cuộc bầu cử Quốc hội khoá 15 dự kiến tổ chức vào 23 tháng 5 tới. Không có sự lựa chọn dân chủ, bởi vậy Quốc hội chỉ là nơi “hợp pháp hoá” quyền lực của Đảng.

Niềm tin xã hội: thách thức lớn nhất

Khủng hoảng thể chế luôn kéo theo suy giảm niềm tin của xã hội và, hệ quả khó tránh khỏi là gia tăng bất ổn. Ba nội dung cải cách có thể phải tiến hành đồng thời: chống tham nhũng, tăng trưởng kinh tế và dân chủ hoá xã hội. Mặc dù, ưu tiên cấp bách là củng cố đảng, nhưng giải pháp bền vững, lâu dài phải là việc khôi phục niềm tin. Đây sẽ là thách thức lớn đối Đảng Cộng sản trong cải cách.

Chiến dịch chống tham nhũng do Đảng tự tiến hành, được ví như “tự lấy đá ghè chân mình”, là giải pháp mang tính bạo lực, cai trị bằng cách gieo rắc nỗi sợ hãi, ‘răn đe’ quan chức. Phong trào học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh còn mang nặng hình thức vì thực tế cuộc sống thay đổi sâu sắc. Chiến dịch “đốt lò” mang lại kết quả tức thì, nhìn thấy được có thể xoa dịu sự bức xúc của người dân và đem lại chút hy vọng về sự thay đổi, nhưng không thể khôi phục niềm tin của xã hội. Tự kiểm soát tha hoá quyền lực, thiếu thể chế đối trọng chính trị và cơ chế giải trình trách nhiệm công khai minh bạch của chính quyền, người dân đứng ngoài cuộc là những yếu tố ‘bất ổn’ thấy trước của chính sách này.

Có bao nhiêu hiện tượng phản ánh sự giảm sút niềm tin xã hội thì có từng ấy cách để đánh mất nó. Nguyên nhân chủ yếu là sự tha hoá quyền lực công, trong đó sự lạm dụng bạo lực có thể gây nên hậu quả nghiêm trọng. “Sự cố” Đồng Tâm xảy ra vào đầu năm 2020 là minh chứng. Từ những bức xúc với chính quyền về thực thi chính sách đất đai và cách giải quyết xung đột, một số nông dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm, đã tự lập “Tổ đồng thuận chống tham nhũng” với vai trò thủ lĩnh của cụ Lê Đình Kình, đảng viên với gần 60 năm tuổi đảng. Như đã biết, sau sự đàn áp của chính quyền kết cục là những cái chết kinh hoàng và nhiều án tử hình, tù đày nặng nề. Vụ việc này đã gửi đi thông điệp về quyền lực và gieo rắc nỗi sợ hãi đối với ‘sự bất tuân’, nhưng chính quyền đã làm mất niềm tin của xã hội.

Ứng phó với khủng hoảng thể chế luôn phức tạp và khó khăn. Tập trung quyền lực và củng cố bộ máy cai trị là công việc cấp thiết để duy trì chế độ. Tuy nhiên, cả hệ thống chính trị phụ thuộc vào người đứng đầu dễ tạo nguy cơ độc đoán. Duy trì bộ máy trung thành buộc phải ban phát đặc quyền, đặc lợi, xây dựng nhà nước tập trung mạnh có thể làm cho các công dân ‘nhỏ đi’.

Đại biểu Quốc hội khoá 14 Dương Trung Quốc sau 20 năm hoạt động nghị trường đã phát biểu “lần cuối cùng” tại nghị trường của kỳ họp thứ 11 rằng: Hoạt động Quốc hội đã ‘thụt lùi’ về dân chủ so với Quốc hội khoá 1 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước đây. Một trong những ‘món nợ dân chủ’ mà Quốc hội phải trả đó là việc hiện thực hoá những quyền tự do cơ bản của công dân, đã được hiến định năm 2013, nhưng đã luôn bị trì hoãn. Chỉ khi người dân được tham gia thực chất vào hoạt động của chính quyền, thì  niềm tin của xã hội mới có hy vọng trở lại.

TS. Phạm Quý Thọ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét