1 giờ ·
Mình đã từng chia sẻ
bài viết này về FB của mình, nay thấy lại nên lại tải về lần nữa. Nhân dân mình
yêu nước thương nòi, thường đồng tâm nhất trí hợp sức cứu nước lúc có giặc
ngoại xâm. Trong lịch sử ngàn năm chưa bao giờ có chuyện người dân thờ ơ với
vận nước. Lịch sử nói về thời Nhà Nguyễn để Pháp chiếm nước ta làm thuộc địa
thì có nói Nhà Nguyễn hèn nhát để mất nước và khi đi học từng đã đọc những bài
thơ có câu "quan quân bán nước triều đình khi dân", nay câu chuyện
này ...
3 giờ ·
Hồi còn nhỏ tôi được
học một bài ca dao:
” Con cò đậu ở bờ
tre/
Thằng Tây nó bắn
cò què một chân/
Mai cò ra chợ Đồng
Xuân/
Chú khách mới hỏi
sao chân cò què/
Cò rằng tôi đứng
bờ tre/
Thằng tây nó bắn
tôi què một chân”
Bài ca dao này cứ ám ảnh
tôi mãi, không phải vì nó có nội dung hay nghệ thuật đặc sắc gì mà vì thông
điệp không rõ ràng của nó đối với người đọc. Tôi nhớ sách giáo khoa (không nhớ
rõ lớp nào và năm nào) có giải thích: – qua nhân vật con cò tố cáo tội ác của
giặc Pháp!
Tuy nhiên, ”con cò” ở
đây không hề có thái độ thù hằn gì “Thằng tây” cả, thậm chí, cũng không thực sự
đau buồn hay giận dữ!. Đổi lại, thái độ của ”cò” hoàn toàn dửng dưng: ”- cò
rằng tôi đứng bờ tre/ thằng tây nó bắn tôi què một chân”! Hết!
Thái độ dửng dưng này
là một dấu hỏi lớn trong tâm trí tôi suốt thời đi học. Sau này được tiếp cận
một khối lượng lớn thông tin và qua suy xét của bản thân tôi dần dần nghiệm ra
ý tứ sâu xa mà tác giả vô danh muốn gửi tới người đọc.
Bài ca dao trên gắn
với một giai đoạn đau buồn trong lịch sử dân tộc, đó là khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
Xem lại lịch sử giai
đoạn này, ngoài quyết tâm đánh pháp của Trương Công Định và các văn thân, sỹ
phu với nhưng tấm gương hy sinh anh dũng (thực ra cả Triều đình Nhà Nguyễn cũng
quyết tâm đánh Pháp) còn có các sự kiện khác mà người Việt Nam có lương tri nào
khi xem lại cũng cảm thấy xấu hổ.
Chỉ có 120 binh lính
Pháp do một đại úy chỉ huy cộng với vài chục lính mộ người Việt và người một số
nước Châu Á khác đi theo hỗ trợ(10 người âu, 30 người châu á, 150 lính mộ Vân
Nam) cùng với 08 khẩu pháo mà hạ thành Hà Nội do một vị đại tướng của Việt Nam
chỉ huy với 7 ngàn quân, chỉ trong nháy mắt! (chưa đến 1 tiếng đồng hồ trong
ngày 20/11/1873)
Đại úy Garnier yêu cầu
nộp thành, ta không theo. Y ra lệnh công thành. Nên nhớ, quân ta đông gấp vài
chục lần quân Pháp, lại là một dân tộc văn minh chứ không còn ở giai đoạn bán
khai như người da đen ở châu Phi hay còn dùng công cụ đồ đá như người Azteca ở
Mexico. Nếu xáp chiến thì chỉ cần dùng quả đấm cũng có thể đè bẹp quân Pháp.
Nên nhớ vũ khí thời đó của quân Pháp cũng khá thô sơ. Tiếc thay, chỉ vài loạt
đạn của quân Pháp quân ta vứt súng chạy như vịt còn trơ lại vị Tổng đốc bị
thương. Con trai Cụ là Nguyễn Lân cũng bị bắn chết.
Các sự khiện tiếp theo
còn bi thảm hơn. Ngày 05/12/1873, chỉ có 7 lính Pháp và 2 lính mộ đi ca nô đến
thành Ninh Bình bắt quan tuần phủ và hạ thành; lúc đó trong thành có 1700 quân
trấn giữ.
Chỉ có 50 lính pháp và
một số lính mộ tấn công thành Nam Định có hàng ngàn quân. Việc quân Pháp dùng
ngay các thanh chướng ngại làm thang leo lên mặt thành cũng đủ thấy sức kháng
cự của quân ta không đáng kể. Thành Hải Dương còn thất thủ một cách khôi hài
hơn. Chỉ có hơn hai chục lính pháp tấn công thành; táo tợn đến mức đu người lên
cánh cửa để nhòm vào trong thành. Sau vài loạt đạn, lãnh binh Vi Văn Đông vội
vàng bỏ trốn, quan binh thấy thế cũng trốn sạch. Quân Pháp phá cổng vào thành,
thành mất.
***
Tại sao một dân tộc đã
từng đánh thắng hàng vạn quân Tống, Nguyên, Minh, Thanh lại bạc nhược như vậy.
Cũng vẫn dân tộc ấy thôi 80 năm sau, bằng vũ khí cũng kém hơn đã đánh bại chính
đế quốc pháp trang bị tối tân hơn nhiều?!
Nhiều người cho rằng
ta thua Pháp vì súng đạn ta không bằng Pháp. Điều đó không sai nhưng thực ra
không hoàn toàn đúng. Súng đạn của quân Nhà Nguyễn cũng được nhập từ phương Tây
và chỉ thua súng đạn của pháp một thế hệ. Thậm chí bằng lò rèn thủ công mà ông
Cao Thắng ở núi rừng Vụ Quang còn chế tạo được gần giống súng của Pháp.
Ta thua pháp về tổ
chức chiến tranh nhưng điều này có thể học hỏi và thay đổi được vì cuộc chiến
tranh pháp – việt kéo dài 30 năm (1859 – 1888).
Nguyên nhân lớn nhất
dẫn đến thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ ơ của đa số người dân trước
thời cuộc, trước vận mệnh của đất nước.
Trở lại bài ca dao,
người dân ở đây được hình tượng hoá ở hình ảnh con cò. Cò ta đứng ở bờ tre để
xem quan quân triều đình đánh nhau với Tây. Cò dửng dưng như người ngoài cuộc
đứng xem một việc không liên quan đến mình. Không may ”thằng Tây” nó bắn phải
”cò”, thế thôi!
Người dân dửng dưng
trước thời cuộc, trước nguy cơ mất nước vì xã hội Việt Nam đã chia rẽ sâu sắc.
Nguyễn Hàn Ninh có bài thơ vịnh đèn kéo quân rất hay nói lên thực trạng của xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ là:
” Một lũ ăn mày, một
lũ quan/
Quanh đi quẩn lại chỉ
một đoàn”
Thân phận người lính
cũng vậy:
”Ngày thì canh điếm,
tối dồn việc quan/
đẽo tre đẵn gỗ trên
ngàn…”.
Các quan chỉ coi lính
như lũ người hầu, làm việc không công: ”nước sông công lính”. Ngay các quan
cũng chẳng quan tâm gì đến việc luyện tập, võ bị. Lực lượng vũ trang bị coi
thường:
”Văn thì thất phẩm đã
sang/
Võ thì tứ phẩm còn
mang gươm hầu”.
Tựu trung, quan lại là
lũ người chỉ nghĩ đến mình, ra tay vơ vét, chiếm đoạt. Người dân đã nhìn rõ
thực trạng này về hàng ngũ công chức bất tài, vô hạnh này:
”Khi bình làm hại dân
ta/
Túi tham vơ vét chẳng
tha thứ gì/
Đến khi hoạn nạn lâm
nguy/
Mặt trông lơ láo, chân
đi tập tềnh!”
Rồi:
” Đồn rằng quan tướng
có danh/
Cưỡi ngựa một mình
chẳng phải vịn ai”
Ông Ích Khiêm phải kêu
lên:
” Áo chúa cơm vua
hưởng bấy lâu/ Đến khi đánh giặc phải nhờ Tầu…”
Trong tình hình quan
chức như vậy, người dân vừa khinh vừa ghét. ”Cò” không nói ra nhưng có khi còn
hả hê trưóc cảnh quan quân bị Tây bắn, chạy như vịt:
”- Cho chúng mày chết!”
”- Cho chúng mày chết!”
Một dân tộc đã chia rẽ
như vậy thì mất nước là tất yếu!
***
Khác hẳn 600 năm trước
khi giặc mạnh phương Bắc lăm le cướp nước, chính quyền đã mở hội nghị Diên Hồng
để tạo sự đồng thuận toàn dân; mở hội nghị Bình Than để thống nhất ý chí của
quý tộc.
Điều đó cho thấy, đối
diện với nguy cơ mất nước càng cần đối thoại để thống nhấ ý chí. Muốn có đối
thoại cần có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ thể trong xã hội. Điều này Nhà
Nguyễn đã không làm được. Những vị vua dốt nát, yếu đuối và đội ngũ quan lại
tham nhũng, bất tài, mua quan bán tước của nhà Nguyễn không thể nào trở thành
hạt nhân đoàn kết dân tộc được nữa. Họ không làm được điều các quý tộc nhà Trần
đã làm. Quý tộc Nhà Trần là những anh hùng, hào kiệt, con cháu của những người
bình dân chài lưới mới chiếm được chính quyền từ tay Nhà Lý rệu rã bằng võ công
và trí tuệ.
Giữa những trang hào
kiệt:
” Một gánh càn khôn
quẩy xuống ngàn/
Hỏi rằng chi đó bảo
rằng than!”
Và lũ công chức tham
nhũng, bạc nhược là khoảng cách rất xa về chất người.
Chúng ta vẫn có thể
thua Pháp vì trình độ phát triển của họ lúc bấy giờ hơn hẳn ta nhưng thua như
kiểu vua quan nhà Nguyễn là một nỗi nhục lớn lao mà không nên quên. Bởi vì nếu
quên, nếu cố tình không sòng phẳng với lịch sử có thể dân tộc Việt Nam lại lặp
lại sai lầm tương tự trong tương lai./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét