Kỷ Niệm 110
năm ngày sinh Cố GS Nguyễn Mạnh Tường.(16-9-1909—16-9-2019).
DÂN CHỦ DI SẢN VĂN HÓA QUÝ
GIÁ CỦA NGUYỄN MẠNH TƯỜNG.
Năm nay, chúng ta kỷ niệm 110 năm ngày sinh của GS
Nguyễn Mạnh Tường,đúng vào một thời điểm, mà giá trị văn hóa ấy lại là thứ mà xã
hội ta, Đất Nước ta rất cần, cho một vận hội mới, một công cuộc
“Đổi mới tử tế” hơn, một chấn hưng
đúng nghĩa.
Trước hết, cần làm rõ dấu ấn của nhân cách Nguyễn
Mạnh Tường, trong những tư tưởng của minh. Điều ấy giúp chúng ta, mỗi
khi đọc một dòng tư tưởng của Ông, chúng ta sẽ mường tượng ra dấu
vết nhân cách một con người cụ thể và sẽ không lẫn được tư tưởng
của một con người khác. Vậy, Ông là ai? Tôi mượn lại đúng cái câu
hỏi, ông đã đặt ra với An Dương Vương, trong bài viết của mình.
Ông là một mẫu hình tiêu biểu của một lớp người sinh
ra, lớn lên trong cuộc giao thoa văn hóa Việt- Đông phương và Pháp -Tây
phương ở nửa đầu thế kỷ XX.Ông là sản phẩm của một thời đại, một
đi không trở lại của Việt Nam hiện đại. Nhưng trong cái mô hình chung
ấy, Ông là ai, ông có nét chủ đạo nào riêng tư làm nên nhân cách của mình?
Vào thời buổi ấy, Quân tử đang vẫn là cái phẩm
chất, cái tinh thần còn được đề cao, trọng thị trong những gia đình
tinh hoa, gia giáo ở nước ta. Tôi quan sát thấy bàng bạc trong ông cho
đến cuối đời cái nét quân tử ấy. Tôi rất ấn tượng khi báo Le Monde
Pháp hỏi ông một câu rất “cắc ké,” Ngài nghĩ như thế nào về hai
ngươì cọng sản là Ceausescu của Rumanie và Hồ Chí Minh của Viêt Nam.
Thông thường, người ta có thể nhân dịp như thế, trả thù cái người
miệng thì nói là bạn, nhưng đã
hãm hại mình không thương tiếc. Cả sứ quán Viêt Nam ở Paris lúc đó
đứng tim chờ nghe ông Hồ bị chửi mắng. Nhưng không. Cụ Tường chỉ trả
lời: tục ngữ Việt có câu: “vật năm bảy loài, người năm bảy đấng”, không
thể so sánh Ceausescu và Hồ chí Minh được. Về phẩm hạnh quân tử thì
Cụ có rất nhiều thí dụ trong đời thường, cả trong đời sống chính
trị và nghề nghiệp, chúng ta cần học hỏi, nghiên cứu. Thật ra khi
nghiên cứu hai tư tưởng Dân chủ và Giáo dục của Cụ mà bỏ qua cái
phẩm chất này sẽ không hiểu gì về tư tưởng quan trọng ấy của Cụ
Có một nét thứ hai trong nhân cách của Cụ, đó là
phẩm chất “triết gia”. Triết gia theo Cụ là một mẫu hình nhân cách
xuất hiện theo sự đòi hỏi của giai
cấp Tư sản Châu Âu đang định hình và bước vào “Thời đại mới”. Những
ông khổng lồ mới trong triết học, khoa học, văn chương, nghệ thuật
xuất hiện. Chính họ đã chiếu rọi những luồng sáng rực rỡ làm nên
“Thế kỷ Ánh Sáng” -- TK XVIII. Nói về nhu cầu của sự xuất hiện con
người triết gia và phẩm chất triết gia, NMT nêu rõ: “Giai cấp tư sản
Pháp, trái lại đang đấu tranh, cần có quần chúng ủng hộ. Do đó, thành
hình dần dần một hình tượng con
người chiến sĩ tư sản, đấu tranh chống phong kiến: Triết gia.Trong thế
kỷ này có rất nhiều định nghĩa, nhận định về triết gia. Encyclopedie
khẳng định : “Còn triết gia của ta, thì biết phân chia thời gian giữa
cuộc đời ẩn dật và cuộc giao du với người. Triết gia đầy lòng nhân
đạo, thiết tha danh dự và tính trung thực…Vì vô cùng yêu mến xã hội,
triết gia cần làm mọi điều đúng như mọi người đợi chờ…luôn luôn tràn
đầy ý nghĩ về lợi ích chung của xã hội…”
Voltaire thì nói
rõ:” Xu hướng một triết gia không phải là thương xót khổ nạn,mà là
phục vụ người khổ nạn ấy…Triết gia chính tông khai vỡ đất hoang
thành ruộng, làm số lưỡi cày tăng lên, do đó dân số tăng lên, tìm
việc làm ăn cho người nghèo, cho phép người ta làm giàu, khuyến khích
cưới xin, xây dựng cho kẻ mồ côi,
không ca thán về các thuế cần thiết, tạo điều kiện cho nông dân đóng
thuế vui nhẹ…Triết gia không đợi chờ gì ở người khác, nhưng giúp ích
cho họ được bao nhiêu càng hay bấy nhiêu…Người đó thù ghét tính giả
dối, nhưng thương xót kẻ mê tín, quý trọng tình nghĩa bạn bè”.
Diderot còn đề cao hơn vai trò Triết gia: “Người thẩm
phán xét xử, triết gia dạy cho thẩm phán thế nào là công bằng và bất
công. Quân nhân bảo vệ Tổ quốc, triết gia dạy quân nhân thế nào là Tổ
quốc. Nhà vua ra lệnh cho mọi người, triết gia dạy cho nhà vua biết
nguồn gốc và giới hạn của quyền lực mình”…
Không khỏi còn những hạn chế, nhưng đó là hình tượng
của một loại người mới , người trí thức hiện đại. Nguyễn Mạnh
Tường may mắn đã cộng vào mẫu hình người quân tử cổ kính với phẩm
chất triết gia hiện đại.
Vì thế, trong tư
tưởng Dân chủ , cũng như về Giáo dục của Ông, chúng ta vừa nhận ra
nét thâm trầm cổ kính của Phương Đông, lại thấy rõ phẩm chất
của triết gia hiện đại, mà dấu ấn của tinh thần Việt cũng không hề
mờ nhạt.
Bây giờ là lúc mà Việt Nam
ta đang chứng kiến cả hai sự khủng hoảng: Dân chủ thì lệch pha, hình
thức , nửa vời và đánh tráo khái niệm (nói theo ngôn ngữ của Marx
là lừa bịp) Ví dụ lừa bịp rõ nhất là khi Marx thì nhận định: chưa
có hai tiền đề cơ bản và quan trọng nhất là kinh tế sản xuất hàng
hóa vật phẩm dồi dào trên cơ sở kỹ thuật cao, và hai là chưa có con
người phát triển toàn diện, thì pháp lý của cách mạng tư sản dân
quyền là tất yếu, không thể vượt qua. Còn lãnh đạo Việt Nam hiện nay
thì tuyên bố pháp lý xhcn! Cuộc khủng hoảng thứ hai là giáo dục.
Giáo dục Việt Nam hiện nay đang lạc hậu mọi bề, đang rối loạn cấu
trúc, đang mất phương hướng,
Tìm lại những kiến giải của
Nuyễn Mạnh Tường về giá trị Dân
chủ mà ông để lại, sẽ có ích rất nhiều.
Nguyễn Mạnh Tường là nhà
luật học, đã hành nghề trong một thời kỳ lịch sử đặc biệt. Những
vấn đề Ông đặt ra vừa thực tế vừa cơ bản. Chúng cung cấp cho ta
những luận chứng để suy xét và để tim giải pháp. Ông quan tâm đến
mối quan hệ giửa Luật pháp và Chính trị. Ông nói”Người cộng sản
ghét pháp luật, có một lý do sâu xa hơn. Có nhiều quan điểm khác
nhau, giữa những con người làm chính trị, và những người chăm lo Luật
pháp, họ khác nhau về thói quen tâm lý và khác nhau cả về tư duy. Lý
do sâu xa, theo tôi đoán là ở như câu nói nổi tiếng của Lenin: Chuyên
chính vô sản không cầh luật pháp!
“Chính trị… Đây là nơi mà sự nhập nhằng là kẻ
chiến thắng. Cái không chính xác về hành động và ngôn ngữ đã tạo cơ
hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn. Kẻ phải phiêu lưu
vào đó phải tránh chuyện logic, sự sáng
sủa và chính xác…phải gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức hay
tình cảm và trên hết thảy, phải hành xử với một thái độ cơ hội
chủ nghĩa sắc bén và linh động”.”Trong khi nhà chính trị muốn khẳng
định chủ nghĩa duy ý chí, thì nhà luật học lại chiếm ưu thế về sự
hợp lý.”
Là nhà luật học, ông quan tâm
đến cấu trúc của nền dân chủ. Nền Dân chủ mà “Chínhquyền là của
dân, do dân và vì dân” tự nó là tập trung trong tay nghành Lập pháp.
Nơi làm ra luật, và nghành Hành pháp sẽ lo áp dụng luật. Sự nguy
hiểm sẽ xảy ra khi cả hai đều cùng cho rằng mình có quyền, với
những đặc quyền riêng, được đứng trên Luật pháp. Nguyên tắc cơ bản
của một nền Dân chủ là mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật. Hệ
quả la ba ngành cùng tồn tại trong một tương quan “cân bằng và kiểm
soát lẫn nhau”. Ông đề cao vai trò Luật sư và Luật Sư Đoàn, và khẳng
định: “Luật sư đoàn là một tiêu chuẩn của một nền Dân chủ, rằng ở
nước nào tiêu chuẩn đó thắng thế và có một Luật sư đoàn chân chính
hoạt động, nơi đó nền Dân Chủ chiến thắng”.
“Như thế, việc chia làm ba
ngành (Lập Pháp,Tư Pháp,và Hành Pháp) đã ngăn chặn những kẻ độc
tài có cơ hội tập trung mọi quyền lực trong tay một người. Nguy cơ
tổn hại về kinh tế, xã hội từ những thảm họa gây nên bởi sự độc
quyền về chính trị, nói một cách chính xác, bởi những tay chóp bu,
có thể được tránh khỏi, hay có thể giảm đến mức tối thiểu.”
Với phẩm chất Triết gia, khi
ông tọa đàm vơí giới Luật sư Xô viết, ông tiên đoán số phận của môt chính quyền phi
dân chủ, đã đánh mất niềm tin của nhân dân: “Khi họ trơ mình trước
quần chúng như một người đàn bà đĩ thõa nghèo nàn và trần truồng,
tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng có
thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ
vẫn phải chịu trách nhiệm đối với kẻ này, bởi những hành động của
người thứ ba, làm tan rã Đảng vì uy tín của Đảng đã bị tan biến
bởi những ngọn gió đầy cay đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào
mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy Đảng còn che đậy chúng dưới
thảm dày để giữ được màu trắng của sự trong trắng!Nhưng một khi tai
tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa thì Đảng
sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống
xuống cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày
vơí những vụ kiện mà uy tín của Đảng sẽ mãi mãi mất và thanh danh
của Đảng sẽ bị hủy diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét…
“Chính trị rồi đây sẽ nhường
bước cho đạo đức, đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật
Pháp để chấm dứt một quá khứ đau khổ, mở đầu cho một kỷ nguyên mà
áng sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ chiếu rọi với
việc tái lập nền công lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của Nhà
nước và những ai đại diện nó.”
Ông khẳng định:”Cái bí mật
của dân chủ là nằm ở sự vận hành của nó, trong việc phán đoán
những quyền tự nhiên và những tự do của con người, vì thế nó đòi
hỏi phải có một sự hiểu biết tối thiểu về quyền công cộng và luật
pháp quốc tế. Những điều kiện của dân chủ là có quan hệ đến kinh
tế của nước liên hệ, mà sự thịnh vượng dù đã bị giới hạn là rất
cần thiết cho sự thành công của nó, cho niềm vui hưởng những quyền tự do và những quyền của
con người…Bản chất của dân chủ,trong ý nghĩa sâu sắc và cái tác dụng
toàn diện của nó, dân chủ gồm hai nội hàm không thể phân ly, đó là nội hàm “Chính
phủ do dân” và nội hàm “Chính phủ vì dân” Thật là xấu hổ nếu cứ
mưu mẹo lập lờ trên chữ nghĩa và cho rằng “Chính phủ cho dân “ là
đủ. Đó là điều bịp bợm !
Và. Ông đặt ra hai câu hỏi gay gắt :
a/ Làm thế nào để những
người cộng sản giải quyết tình trạng xung đột quyền lợi của Đảng
và quyền lợi của Dân tộc và Tổ quốc?
b/ Chủ nghĩa anh hùng của
các Ông có làm cho các ông dám hy sinh Đảng của quý ông trên bàn thờ
của Tổ quốc và Nhân Dân?
Hai câu hỏi này tựa như chiếc
chìa khóa để mở ra nền Dân chủ cho Việt Nam hôm nay.
Đảng có tìm được không? Hay
là buộc Dân phải rèn lấy chìa khóa mở cửa vào tương lai mới của
mình.Thật là nan giải, thật là gay cấn.Nhưng, trong bài Suy Ngẫm Cổ
Loa của ông mà tôi có may mắn được dịch lại, có câu cuối: “Dẫu sao,
chúng ta cũng hy vọng rằng nhân dân sẽ đặt niềm tin với nhiều sáng
suốt hơn là cứ bị lũ ba que chơi bài ba lá lừa đảo đường phố dẫn
dắt”./.
Ô Đồng Lầm Hà nội, giữa
Tháng 9-2019 những ngày tàu chiến của Trung cộng uy hiếp Bãi Tư Chính
của Việt Nam.
Những câu trích dẫn đều lấy
tư mấy tác phẩm: Người Bị Rút Phép Thông Công, Lý Luận Giáo Dục Châu
Âu, Suy Ngẫm Cổ Loa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét