Nguyễn Hữu Liêm
Hôm 24/11/2021 tại Hội nghị Văn hóa ở Hà Nội, GS Nguyễn Phú Trọng tuyên bố
rằng, “Văn hoá chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và
chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát
triển bền vững đất nước, (và đang) thiếu những tác phẩm văn hoá, văn học, nghệ
thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng
tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người.”
Dù rằng GS Trọng chỉ phát biểu quan điểm
cá nhân, nhưng ta hiểu đó cũng là nhận xét chung từ góc độ chính trị của Đảng
CSVN. Đối với ông Trọng, văn hóa là một thành quả chính trị có định hướng, phát
xuất từ ý chí và mệnh lệnh ý thức hệ của Đảng. Vì vậy, khi ông cho rằng văn hóa
Việt Nam đang thiếu những tác phẩm văn học lớn ngang tầm với thời đại và sự
nghiệp chính trị đổi mới của Đảng, thì chúng ta phải hiểu rằng GS Trọng đang
chờ đợi một trước tác về chính trị học tầm cỡ mang nội dung ý thức hệ cách mạng
cho thời thế.
CŨNG LẠI KIỀU, MARX, MÀ KHÔNG CÓ MILL
Đối với một tín đồ của giáo điều Mác xít,
GS Trọng chắc là phải công nhận rằng tác phẩm tầm cỡ nhất phải là bản “Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản” của Marx-Engels – vốn đã có mặt từ gần hai thế kỷ
trước. Nếu thế, thì GS Trọng khó có thể nhận ra bất cứ tác phẩm chính trị hay
văn học nào lớn lao dưới chiếc bóng lớn và đậm của bản tuyên ngôn này.
Khi nhìn về văn hóa Việt, mỗi khi phát
biểu, GS Trọng cũng chỉ thấy Truyện Kiều là tác phẩm văn hóa
lớn lao, bao trùm tất cả lịch sử văn học dân tộc, không thể bị thay thế, hoán
chuyển thứ bậc. Hình như ông đang trong cơn say của Kiều khi nhìn vào thời thế
và vận nước. Ông đứng yên dưới hai chiếc bóng lớn của thời xưa cũ – của Karl Marx
và của Nguyễn Du – và nhìn ra thế gian để cố tìm một chiếc bóng lớn hơn cho
Đảng của ông được an toàn đứng núp. Và ông đã thất vọng. Niềm thất vọng ấy nay
đang biến thành mệnh lệnh văn hóa cho Đảng như là một nghị quyết chính trị.
Nhưng GS Trọng chắc là không để ý đến
rằng, mười năm sau khi Tuyên ngôn Cộng sản ra đời năm 1848,
thì đã có một tác phẩm văn hóa chính trị tầm cỡ cho thời đại cũng đã ra đời
(1859). Đó là cuốn On Liberty (Luận về Tự do) của triết gia
người Anh John Stuart Mill. Cuốn của Mill như là một tuyên ngôn về Tự do Cá
nhân, nó đã là chiếc bóng tri thức và tư tưởng khá dài và đậm nét cho quần
chúng Tây Âu. Luận về Tự do đứng đối diện về tầm vóc và đối
trọng trên cơ sở tư tưởng với bản Tuyên Ngôn của Marx- Engels.
Cả hai tác phẩm này đều nói về Tự do như
là một thiết yếu tính đối với nhân loại. Trong khi Marx và Engels hướng đến chủ
đề Tự do bằng trái tim, thì Mill dùng đầu óc để biện luận về nó. Trong khi
Marx-Engels tuyên bố về Tự do qua mô thức Cộng sản như là một đấng tiên tri
tuyên phán về một viễn cảnh kinh hoàng đang xuất hiện ở chân trời Âu châu, thì
Mill nhẹ nhàng thong thả đi vào vấn đề như một giáo sư chính trị học. Khi
Marx-Engels nói về Lịch sử như là một chuỗi dài đấu tranh giai cấp; Mill nói về
cuộc vật lộn giữa Tự do và Quyền lực. Marx-Engels hô hào cho cứu cánh Đại thể;
Mill lý luận về vị trí con người Cá nhân. Marx-Engels cổ võ cho một năng lực
Cách mạng dựa trên giá trị tập thể; Mill biện hộ cho quyền hạn cá thể độc lập
và đặc thù.
GS Trọng dĩ nhiên đã nằm lòng và quán
triệt Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, thì thiết nghĩ ông – xin phép
nếu chưa – cũng phải đọc Bàn về Tự do của Mill. Hai đại tác
phẩm này cùng là một thể loại văn chương chính trị trong một Thời quán chuyển
hóa Ý thức con người sang một nấc thang Tiến hóa mới.
Trong khi ngôn ngữ Cộng sản của
Marx-Engels là tiếng kèn xung trận cho Đại thể tính; văn chương trí thức Anh
quốc của Mill là tiếng còi cảnh tỉnh xã hội về vai trò và giá trị Cá nhân. Hai
bộ chữ này đại diện cho hai khuynh hướng Ý chí: Ngôn từ Cộng sản là năng lực hướng
ngoại, chủ động giao hoán Ngã thức cá thể cho nhu cầu Sử lý; văn chương của
Mill thuộc dạng thụ động, muốn bảo toàn cho cá nhân một không gian làm người
trong phạm vi riêng tư và tự chủ, sáng tạo.
Trong khi đó, ở Việt Nam, truyện Kiều nhấn
chìm dân tộc vào một thể loại giáo điều văn hóa mang nặng chất tín ngưỡng –
niềm tin chắc mãn vào Số phận. Trong khi Marx-Engels nâng ý chí làm lịch sử lên
tầm mức Thượng đế, đối với Nguyễn Du thì Số phận là tất cả. Chủ nghĩa Mác đã
phá vỡ vòng dây xích thụ động của Kiều và thúc dục đất nước đứng lên, vung tay
kiến tạo lịch sử và số phận cho dân tộc. Có thể nói rằng, chủ nghĩa Mác là
thang thuốc huyền nhiệm cho số phận nô lệ Việt Nam. Cũng nhờ vì có một tầng lớp
tiên phong dân tộc Việt có can đảm đứng lên phá vòng xích nô lệ văn hóa của
Kiều để theo chân Marx làm cách mạng, mà Đảng CSVN xuất hiện và hoàn tất sứ
mệnh lịch sử cho đến gần đây.
Tuy nhiên, thang thuốc được coi như là
huyền diệu cho lịch sử Việt Nam đã biến chất và trở nên liều thuốc độc. Chủ
nghĩa Mác-xít và hiện thân của nó là Đảng CSVN, với tất cả những thành công
ngoạn mục, đã là một phản đề của Kiều, nay đang là mầm bệnh cho văn hóa và con
người Việt Nam. Khi chủ quan duy ý chí trở nên ngọn cờ duy tập thể đầy hãnh
tiến và độc tôn, nó đã vi phạm tất cả những nguyên lý bất biến của lịch sử.
Nguyên nhân chính yếu và quan trọng nhất
là chủ nghĩa Mác và Đảng đã bỏ quên cái vế quan trọng – điều mà tác phẩm Bàn
về Tự do của Mill làm cột trụ tư tưởng chính trị cho nhân loại – đó là
Tự do Cá nhân. Khi lấy Mác-xít làm kim chỉ nam cho tư tưởng chính trị quốc gia
mà quên không đặt nền tảng và thiết yếu tính Tự do cho cá thể công dân thì cũng
như đọc Kiều thuộc lòng từng câu mà lại quên đi nguyên lý “nhân định thắng
thiên.” Sự mất quân bình như thế trong tư duy văn hóa chính trị Việt Nam, ít
nhất là đối với người Cộng sản, đã biến sử Việt thành một cuộc mệnh đầy bi
kịch.
Thang thuốc Mác-xít cuối cùng không chữa
được bệnh lý Kiều cho dân tộc, mà trái lại, nó biến dân tộc ta thành nên những
nàng Kiều thụ động, chấp nhận số phận dưới sự cai chế khắc nghiệt và chuyên chế
của Đảng. Dưới bàn tay sắt cứng ngắt của thể chế, dân ta mất hết cảm hứng và
khả năng sáng tạo. GS Trọng phải biết rằng, đây chính là nguyên nhân chính – và
gần như duy nhất – cho sự thiếu vắng những tác phẩm văn hóa lớn của Việt Nam từ
khi Đảng lên nắm quyền cho tới hôm nay.
Hãy nhìn lại miền Nam từ 1960 đến 1975,
chỉ trong vòng 15 năm, trong một thể chế chính trị tự do cá nhân – dù non nớt
và khập khễnh – nhưng ở đó đã không thiếu những công trình và tác phẩm văn hóa
lớn, đủ trên mọi phuơng diện – kể cả những bản nhạc rất hay – điều mà GS Trọng
nay đang than vãn. Nếu không có Tự do trên cơ bản cá thể, thì ngay cả ca nhạc
cũng chẳng ra hồn. Hãy nhìn nhạc sĩ Văn Cao dưới chế độ miền Bắc thì sẽ rõ.
Điều này xin được nhắc nhở GS Trọng.
LƯƠNG TÂM TRONG SÁNG
GS Trọng cũng nhắc nhở nhiều lần đến cán
bộ cao cấp của Đảng rằng hãy nuôi dưỡng và hành dộng bằng cái Tâm trong sáng.
Điều này thì không ai chối cãi.
Nhưng nhân dân xin hỏi là GS Trọng có lấy
cái Tâm trong sáng của mình để nhìn thế cuộc một cách công tâm, vừa phải, hợp
lý, không thiên vị Đảng, không giáo điều, nhằm đáp ứng theo nhịp bước thời đại
cho dân tộc?
Vâng, mời GS Trọng hãy nhìn với cái Tâm.
Rằng khi một thể chế lấy lý lịch cách mạng của tầng lớp thấp nhất trong xã hội
làm cột sườn chính trị và công quyền cho quốc gia thì Đảng đang nuôi dưỡng một
năng động văn hóa hạ cấp. Mà đã là phường hạ cấp thì dù có được đào tạo bao
nhiêu, dù trau dồi tư tưởng chính trị bao nhiêu, thì những tâm chất mang tính
tập thể ngây ngô và kệch cỡm không thể có cái tâm trong sáng được. Hệ quả là
thối nát và vô minh. Để cố chữa bệnh thối nát từ trên xuống, ông không thể chỉ
dằn mặt bằng các bản án và liên tục kêu gọi cán bộ có tâm trong sáng được. Dầu
gió xoa ngoài da không thể chữa lành khối ung thư tim óc – thưa GS Trọng.
GS Trọng hãy lấy cái Tâm trong sáng của
mình để tự hỏi rằng, khi những công dân, hay phụ nữ trí thức trẻ chỉ lên tiếng
đòi hỏi những quyền chính trị và công lý cơ bản nhất cho nhân dân – mà Hiến
pháp bảo đảm – lập tức bị chế độ trừng phạt với những bản án vô lý và khắc
nghiệt mang tính thuần đe dọa và áp chế, thì làm sao mà văn hóa có được những
tác phẩm văn chương tầm cỡ, những ca khúc hay, cao đẹp?
Lần tới, khi GS Trọng lại trích Kiều, xin
hãy nhớ cho rằng, không những ông “nghĩ mình phương diện quốc gia” – mà cả
thiên hạ và cộng đồng thế giới, cả nhân loại và lịch sử Việt đang nhìn ông và
Đảng để mà đánh giá nghiêm khắc.
GS TRỌNG HÃY KIẾN TẠO MỘT TÁC PHẨM LỚN ĐỂ
ĐỜI
Với những thành đạt ngoạn mục gần đây trên
trường quốc tế, từ kinh tế đến ngoại giao, Đảng CSVN dưới sự lãnh đạo của GS
Trọng phải có quyền hãnh diện.
Khi lần đầu tiên trong lịch sử Việt, hãng
xe Vinfast mang chuông đi đánh xứ người tận Hoa Kỳ, cạnh tranh trực diện với
các anh chàng tư bản khổng lồ thế giới; khi hai hãng máy bay Việt Nam và Bamboo
Airlines bay thẳng, không ngừng, nối kết hai bờ California và Việt Nam, thì tất
cả chúng ta, làm người Việt, đều phải hãnh diện – điều không những chỉ cho
những người Cộng sản hay giới tư bản thân hữu. Đó là công tâm – với tấm lòng
trong sáng và khách quan.
Nhưng TBT Trọng có thể bước một bước xa
hơn – thiết yếu và khẩn cấp hơn. Đó là hãy mở tung cái chuỗi xiềng xích chuyên
chính ý thức hệ, thuần lý lịch, với guồng máy công an cai trị bằng bạo lực vốn
đã kìm hãm năng lực sáng tạo và sức bật nhảy vọt của nhân dân cả hơn nửa thế ký
qua. Đây chính mới là tác phẩm lớn mà nhân dân đang chờ nơi GS Trọng. Hãy đừng
mong chờ gì ở nhân dân, trí thức, văn nghệ sĩ cho những tác phẩm tầm cỡ – khi
mà guồng máy chuyên quyền vẫn kìm kẹp và lộng hành như hiện nay.
GS Trọng hãy lấy cái Tâm trong sáng của
mình để quyết tâm và can đảm kiến tạo và hoàn tất cho dân tộc một tác phẩm văn
hóa, một cơ đồ chính trị lớn lao, mà dân tộc và lịch sử sẽ phải ghi công. Đó là
tác phẩm TỰ DO CHO VIỆT NAM.
N. H. L.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét